NGHĨ VỀ VĂN HÓA TÂM LINH VÀ TÍN NGƯỠNG NGÀY NAY.

“Chúng sanh chìm bùn dục
Những kẻ không thấy đời…”
Subha.

caunguyen-01Cho dù ngày nay với tốc độ chuyển biến của xã hội như thế nào đi nữa, con người có lao vút ào ạt vào quỷ đạo khát vọng nhiệt cuồng, thậm chí đánh mất phẩm chất nhân tính bởi những dục tính dồi dào cho đến thế nào đi nữa ! Thì lời dạy của Đức Phật, của những bậc giác ngộ, những bậc thức giả, vẫn luôn được thắp sáng mỗi lúc, mọi thời và mọi nơi trong cuộc sinh tồn của con người và nhiều sinh loại khác.

Thế nhưng từ bao thuở xưa xa cho đến tận bây giờ, số đông con người vẫn miệt mài, nôn nã, ước vọng đi tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình, để rồi có được chăng, ngoài những thỏa nguyện riêng tư trong những ngõ đời chật hẹp…hay cũng chỉ là bao ý tưởng mơ hồ huyền hoặc của lớp khói sương phù phiếm mà thôi.
Bởi sự tham cầu vô vọng, do niềm tin được thông qua bởi bao sự sợ hãi, toan tính, chước mưu do tham tầm cầu để được thỏa mãn các dục lạc. Và nếu như bao hình thức cả nội dung ấy vẫn còn duy trì một cách đắm đuốithiết nghĩ cũng lắm nỗi mịt mù, mục nát cho hướng nẻo tương lai trong cuộc tử sinh nầy. Mà tác nhân đứng phía sau đó lại là một vài đạo sưđạo sĩđạo nhânnhân danh, tư tách, thậm chí còn cho là bổn phận từ cõi nầy cõi kia đến để cứu đời, diễn bày với bao hình thức cầu nguyện, bùa chú, phép linh mầu nhiệm.v.v…
Ngày nay, đứng trước bao nhiêu hiện cảnh khá phức tạp và phổ biến trong cuộc sống, chúng ta thường cho rằng thời đại phát triển khoa học, tầm vóc vĩ đại và văn minh của nhân loại, thậm chí còn cho rằng : “văn hóa, văn minh tâm linh” hô hào tuyên truyền những tính đặc thù vượt thoát siêu hóa đến cộng đồngloài người, thế nhưng thực chất, có việc lại đi lùi lại sự tiến bộ văn hóavăn minh đạo lý tâm linh ấy một cách cực kỳ nguy hiểm đến mức đáng được báo động hơn bao giờ hết, đó là vấn đề hình thức khơi màu tín ngưỡng (tiêu cực), lễ hội chiêm bái cầu nguyện chuyên chở đầy tham vọng. Đến đây, chúng ta cùng nghĩ và đề cập đến lỉnh vực tinh thần đạo lý giác ngộ qua lời dạy của Đức Phật, cũng như hiện tượng gọi là văn hóa tâm linh tín ngưỡng, đang sinh hoạt trong tổ chức Phật giáo hiện nay (ở góc độ hẹp).
Từ xa xưa, tín ngưỡng được thổi vào xã hội loài người bằng niềm tin đa thần giáo, dần lâu sau đến nhất thần giáo… mãi về sau nữa cho đến thời kỳ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện, thì được Ngài chủ xướng bằng một ý thức giác ngộnhận diện, minh triết qua mọi hiện tượng và các pháp sanh diệtkhám phá và tuyên bố chân lý thâm diệu sau khi chứng nhập quả vị tối thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đó là bốn chơn lý cao thượng Tứ Thánh Đế hay còn gọi là Tứ Diệu Đế, được Đức Phật mở đầu công bố vào thế gian tại vườn Lộc Uyển (Isipatana), và cũng chính nơi đây, giáo pháp và Tăng già được Đức Phật thành lập.
Cửa bất tử đã mở, cho những ai chịu nghe…”
                                                          (Kinh Thánh CầuTrung Bộ I).
Như đã được đề cập ngay từ đầu “chúng sanh chìm bùn dục, những kẻ không thấy đời…” (Subha). Vì rằng : không thấy được hiện tượng Sanh, Già, Bệnh, Chết bị chi phối bởi Vô thường, Khổ, Vô ngã…đến với các loài hữu tình, và Thành, Trụ, Hoại, Không… đến với không gian và thời gian… Đồng thời, cũng không rõ biết được những pháp thiện và pháp bất thiện, không thấy sự nguy hại, tàn phá khốc liệt đưa đến nhiều khổ đau, đọa xứ ác thú địa ngục ngay trong hiện tại. Đó là vô minh, đó là “không thấy đời”, vì họ đã chìm đắm trong những lạc thú thấp kém thường tình và đầy dẫy tội lỗi từ nơi Thân, Khẩu, Ý  tạo tác từ hiện đời, hay trải qua nhiều đời trong lộ trình sinh tử.
Một điều nữa, chúng ta có thể hiểu thêm rằng : “không thấy đời…” không chỉ riêng cho một ai, dù có hình thức tín ngưỡng, hay không hình thức tín ngưỡng, dù người tu xuất gia hay người tu tại gia, mà là do hành xử trong cuộc sống không phù hợp với lý tínhthực tính đạo đức, không có tâm xã ly, không khắc phục những ác hạnh dục tham nơi thân và tâm, hại mình và hại người, không cảm thông và thương tưởng đến mọi người, mọi tầng lớp, nhất là tầng lớp chịu nhiều bất hạnh trong gia đìnhxã hội và kể cả trong một đất nước, chỉ biết phục vụ lợi dưỡng cho bản thân, cho người của mình, không biết chia sẻ sâu sắc từ những cảm thọ thuộc về khổ thọ của con người qua nạn đói nghèo, chiến tranh tàn phá, cướp giựt, thiên tai, đói rét và chết chóc, những bất công đàn ápcậy thế lực quyền hành hay giàu có.v.v…
Đồng thời, qua những điều đó nếu chính mình là một phần nhân tố, nếu chính mình đem đến hệ quả hay cộng sự để tạo thành hệ quả…, không có sự thương tưởng tốt đẹp phù hợp với nhân tính đạo đức, để có được an lạc lâu dài từ thân và tâm, để không làm hại mình và người. Thời như vậy là kẻ “không thấy đời…”. Chúng ta có dịp đọc những lời thơ tự nhận nơi chính mình, như :
“Ta cứ chạy hoài
Qua những bước đời say men
Qua những ước mơ trắng màu ký ức
Qua những dấu hỏi trầm lên khuôn mặt
Ta chạy đuổi một đời
Không tới đích.”
Ta cứ chạy, rượt đuổi, tầm cầu vô vọng bởi những niềm tin được tẩm ướp bằng chất liệu từ nơi bao dục tưởng, thì biết bao giờ mới có sự yên vui đích thực ngay trong hiện tại, nơi mà chúng ta đang có mặt. Chúng ta hoàn toàn vuột khỏi tầm tay, hay không với
đến được do tầm tay, bởi những ký ức quá khứ mơ hồ lừa gạt, bởi những vị ngọt hảo huyền chứa đầy chất độc thời gian hứa hẹn cho một tâm hồn tham tầm cầu, để rồi từ đó sân tưởng và hại tưởng phát sinh, ác hận phát sinh sẽ đưa đến đau khổ đọa lạc tái sinh. Như vậy, không phải chỉ chạy đuổi một đời mà còn băng qua, truợt qua nhiều kiếp sống, không tìm đâu đích điểm để dừng cuộc phiêu bạt bao nẻo luân trầm. Từ đây, chúng ta mới thấy lời dạy tuyệt diệu nơi Đức Phật :
“…Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát…”
                                                                          (Kinh Tương Ưng IV).
Như vậy, từ hình thức tín ngưỡng ban đầu, nhằm vào sự chuyển hóa tâm tư biến thành niềm tin đúng pháp, tin vào sự vấn thân và thành tựu của Đức Phật, tin vào những năng lực Diệu Pháp mà Đức Phật đã trình bày, và tin vào những vị đệ tử của Đức Phật đã thực tập để được đắc nhập vào Thánh hạnh thành tựu những Thánh quả, đem lại sự tươi mát, an lạc hạnh phúc cho chúng sanhchư thiên và loài ngườiniềm tin đó sẽ hóa giải khổ đau, sẽ đem lại lạc trú hiện tạiĐồng thời niềm tin phải luôn được nuôi dưỡngbởi có sự tu tập Giới-Định-Tuệ.
Ngày nay, trong cũng như ngoài nước, chúng ta thấy có nhiều nơi vận động, kêu gọi tổ chức, thiết lập đàn tràngđại lễ cầu nguyện, có những lễ chiêm bái khá phổ biếnnếu không nói đó là hình thức “cành lá phạm hạnh”. Ở những năm gần đây từ giữa cuối thế kỷ 20, lễ chiêm bái ngọc xá lợi, và lễ chiêm bái Phật Ngọc Hòa Bình Thế giới cũng đã được diễn ra nhiều năm qua, có nhiều nơi đăng ký tổ chức nhiều lần như; tại các Đạo tràngTự việnTu việnTịnh xá.v.v…
Xét thấy, việc tổ chức chiêm bái nói trên, nhằm để mọi người đệ tử Phật và mọi giới trong xã hội đến với lòng kính tin, đến do phát khởi tín tâm (hướng thiện, và hướng thượng), đến để trưởng dưỡng bồ đề tâm, tự mình rõ biết và hộ trì chánh pháp, giúp người rõ biết và hộ trì chánh pháp, điều ấy rất phù hợp tinh thầnhành sự của “sứ giả Như Lai”. Nhưng nếu trái lại, nó sẽ có tác dụng ngược cho cả hai chúng đệ tử (xuất gia và tại gia), nhất là Ban tổ chức, không vì mục đích tuyên dương chánh lý, chánh pháp của Đức Thế Tôn và chư lịch đại Tổ Sư.
Đối với người tổ chức, nếu ngoài mục đích trên, nghiễm nhiên đã bị lạc mất quỉ đạo, chệch hướng đi khi thực hiện việc làm hiện hóa hình ảnh Đức Phật vào đời, điều nầy (có lỗi với Tam Bảo), đối với người tại gia, số đông sẽ chỉ biết dựa dẫm vào niềm tin để cầu nguyệnvan xin, không hiểu được những ích lợi qua sự tu tập pháp của bậc Thánh, để thanh lọc và tịnh hóa thân tâm chuyển mê khai ngộ, hướng cầu Phật giới, dứt trừ chướng nghiệp ác quấy về thân-khẩu-ý của mình, để đuợc tích tụ công đức lành ngay trong hiện tạiĐức Phật dạy :
“Những ai hành trí pháp
Theo chánh pháp khéo dạy
Sẽ đến bờ bên kia
Vượt ma lực khó thoát” PC. 86. 
Vả lại, sự hiển bày “Văn hóa Tâm linh” phải được hướng dẫn từ sự thấy, sự nghe, sự suy tưởng với mục đích tối thượng, là để các lậu hoặc đuợc đoạn trừ, cũng như sự cầu nguyện phải được chuyển tải bằng hành động để có được an lạc và hạnh phúc đích thực, điều nầy, một hôm Đức Phật dạy cư sĩ Cấp Cô Độc như sau :
“Có 5 pháp nầy, nầy gia chủ, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó tìm đuợc ở đời. Thế nào là 5 ?
“Tuổi thọ…, Dung sắc…, An lạc…, Tiếng đồn tốt…, Cõi Trời (sanh thiên) khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời
“…Vị Thánh đệ tử muốn có Thọ mạng… Dung sắc…, An lạc…, Tiếng đồn tốt…, Cõi Trời…, cần phải thực hành con đường dẫn đến thọ mạng… Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến Thọ mạng…, sự thực hànhấy, vị ấy nhận lãnh thọ mạng…, dung sắc, an lạctiếng đồn tốt, hoặc chư thiên, hoặc cõi người.” Kinh Tăng Chi V, Phẩm Khả lạc.
Như vậy, sự phát triển đích thực về “Văn hóa tâm linh” là đồng nghĩa với hành động hướng vào một nếp sống có ý thức giác ngộ, có nhận chân được mọi sự vật hiện tượng, có chế ngự được khổ thọ và lạc thọ(dục lạc) không bị các lợi dưỡng chi phối, có sự tỉnh giác về Thân-Khẩu-Ý, có nhu nhuyễn về sự tu tập, vượt thoát khuôn sáo bên ngoài, tự mình có tu tập, hướng dẫn người biết tu tập, tự mình an hòa, giúp người được pháp an hòa, mà Đức Phật, chư Thánh Tổ tự ngàn xưa đã hướng dẫn trên đạo lộ ấy, đó là cội nguồn của “Văn hóa Tâm linh”.
Có thể nói ; đó là kẻ thấy đời, không bị chìm trong bùn dục. Mà cũng là sự cộng hưởng tịnh hóa vào nguồn mạch tâm linh của Chư Phật, của những bậc Thánh, và Chư Tổ, bậc giác ngộ tự ngàn xưa cho đến ngàn sau. Đến đây, để kết thúc bài viết nầy, chúng ta cùng đọc lại lời dạy của Bồ Tát Shantideva (Tịch Thiên) như sau :
“ Nếu không biết tâm nầy, bí yếu của tất cả Phật Pháp, thì dù có mong muốn thoát khổ và được an vui, rốt cuộc vẫn phiêu bạt trong ba cõi một cách vô nghĩa”
(Trích: Nhập Bồ Tát Hạnh).
 MẶC PHƯƠNG TỬ.