Cái nhìn của Thiền về nền giáo dục hiện đại
...Ngài Lâm Tế (viên tịch năm 866), một trong những Thiền sư nổi bật vào thời Đường có lời khuyên về một sự giáo dục lý tưởng như sau. Ngài nói: “Người học không để ý đến lỗi lầm của kẻ khác; người đó tha thiết tìm cầu kiến giải bên trong. Khi hoàn toàn rõ ràng về kiến giải chân thật, thế là xong việc”. Điều ngài Lâm Tế dạy là người học phải không chỉ trích những điều kiện ngoài đời, cũng không phê bình những khuyết điểm của người khác. Ngài Lâm Tế miêu tả một cách rõ ràng như thế của Thiền trong việc giáo dục. Rèn luyện có nghĩa là tìm kiếm cái thấy chân thật không phân biệt giữa thất bại và thành công, giàu và nghèo, đúng và sai. Do đó trong Thiền, chữ giáo dục nên được hiểu là tìm kiếm Tâm không phân biệt.
Tìm kiếm Tâm không phân biệt là một hình thức giáo dục Thiền. Trong Thiền, công án có thể được dùng để dạy người học tìm thấy Tâm. Tuy nhiên, công án không phải là phương pháp giáo dục thông thường. Công án là một dụng cụ để khơi dậy cái thấy không dựa trên lý lẽ, ý niệm và ngôn ngữ. Từ Bồ – đề Đạt – ma về sau, môn đồ nhà Thiền được rèn luyện không dựa vào ngôn ngữ và những văn tự. Do đó, trong việc học Thiền, người học được dạy bằng phương pháp không-dạy. Nói cách khác, đọc và suy nghĩ không được coi là hình thức tốt nhất trong phương pháp giáo dục. Dĩ nhiên điều đó không thực tế đối với hầu hết các người thầy trong nền giáo dục hiện đại. Tuy nhiên, có một kích thước khác trong cách giáo dục của Thiền, đó là từ mức độ không-dạy đưa đến phương pháp dạy bằng thân giáo. Một ngày nọ, Đức Phật ngồi xuống trước đại chúng, ngài không nói một lời, chỉ đưa lên một đóa hoa. Cử chỉ bí mật đó đại chúng hoàn toàn không hiểu. Chỉ có một người là ngài Ma–ha–Ca–diếp hiểu được ý của Đức Phật, ngài không nói một lời mà chỉ mỉm cười. Giáo lý vi tế và sâu xa của Đức Phật không được bày tỏ bằng ý niệm, cũng không được dạy bằng lời. Đó đơn giản chỉ là Đức Phật đã thực hiện phương pháp không–dạy và đã dạy bằng thân giáo. Điều Đức Phật thực hiện không phải là một phương pháp giáo dục không bình thường. Mọi người đều hiểu ý nghĩa câu “phải thực hành điều giảng dạy”, hoặc “phải thực hành điều học được”. Phương pháp dạy đó là phương pháp rất tự nhiên trong Thiền.
Thiền có thể giúp gì cho nền giáo dục hiện đại?
Các sử gia đồng ý rằng đời sống hiện đại có nhịp độ nhanh hơn những thế kỷ trước. Mọi sự đều đòi hỏi chuyển động nhanh; sự việc phải được thực hiện trong thời gian ngắn nhất. Hầu hết không có người nào chạy xe trên xa lộ hay đường phố theo dõi giới hạn vận tốc; mọi người đều muốn chạy nhanh hơn. Có một hệ thống giao hàng trong đêm, và có một hệ thống ngân hàng cấp thời phục vụ 24 giờ một ngày. Một điện thư có thể gởi đi trong một cái nháy mắt. Những điều này rõ ràng là tiện nghi. Tuy nhiên, sự tiện nghi không luôn luôn cung cấp cho con người hiện đại một đời sống thỏa mãn về trí tuệ và tinh thần. Trong cuộc sống bận rộn, con người chạy theo hết sự việc này đến sự việc khác, và thường xao lãng những mối tương quan con người. Đối với đời sống chuyển động nhanh chóng hiện đại. Thiền khuyên chúng ta tập trung nhiều hơn vào yếu tố con người của đời sống. Nói cách khác, con người nên tìm về với nội tâm, thay vì cứ chạy đua theo các sự kiện và của cải vật chất.
Trong một ý nghĩa, tìm về với nội tâm có ý nghĩa là tìm nhiều thời gian hơn cho chính mình, thay vì dấn thân vào một lối sống bận rộn và tàn phá. Bằng cách cho phép mình có nhiều thời gian hơn, con người có thể có được tâm thức yên tĩnh và an bình. Tâm thức an bình không giống như trạng thái lười biếng hay bất quyết; tâm thức này không bị quấy rầy bởi môi trường bên ngoài thường làm cho con người không chịu nổi tính chất hỗn độn và hung hăng của đời sống hiện đại. Người có tâm thức an bình làm chủ được tinh thần của mình. Người đó thấy được những bịnh hoạn của xã hội, không bị lôi kéo vào những vấn đề xã hội.
Nhiều vấn đề hiện nay cách này hay cách khác có nguyên nhân từ việc có quá nhiều người tham gia vào quá nhiều hoạt động. Khi tính kiêu căng và bản ngã được hòa trộn với nhiều hoạt động, một tình trạng không thể điều khiển sẽ xảy ra. Hai mươi ba quốc gia nhúng tay vào cuộc Thế chiến thứ hai để giải quyết vấn đề bằng việc tiêu diệt lẫn nhau, và kết quả là trên 53 triệu người bị giết chết. Thiền Phật giáo đưa ra một số giải pháp cho sự điên rồ của thời hiện đại. Giải pháp đó là trở nên quan tâm và có chọn lựa trong những sinh hoạt hằng ngày. Bằng cách này, con người có thể tìm thấy nhiều thời gian hơn cho việc tự vấn và suy nghiệm. Thiền Phật giáo biết rằng bằng cách hiểu thấu những khúc khuỷu của cuộc sống không đoán trước được, con người sẽ có cơ hội tìm thấy Tâm của chính mình, cũng là Tâm Phật.
Tâm, hay Tâm Phật, không phải là cái tâm đặc biệt, nhưng nó ảnh hưởng đặc biệt làm cho một người nhận ra sự quan trọng của mỗi sự vật hiện hữu và mối tương quan của chúng. Ý thức về sự tương liên giúp con người hóa giải sự ganh ghét, bất công, kiêu căng, thất vọng, lo âu và niềm vui vào một trạng thái cân bằng, đưa con người nhận ra và sống trong cảnh giới hoàn toàn hòa điệu của cuộc sống. Bàng Uẩn (740 – 808) trình bày rõ ràng cốt tủy của giáo dục Thiền trong bài kệ sau đây:
Việc ngày không gì khó
Tự nhiên hợp hoà cùng
Không có gì lấy, bỏ
Chốn chốn mặc thong dong
Chẳng kêu ca tím đỏ
Gò núi mảy bụi không
Bửa củi và gánh nước
Diệu dụng với thần thông.
(Nhật dụng sự vô biệt
Duy ngô tự ngẫu hài
Dầu đầu phi thủ xã
Xứ xứ một trương quai
Chu tử thuỳ vi hiệu
Khâu san tuyệt điểm ai
Thần thông tịnh diệu dụng
Vận thủy dữ bàn sai.)
Cư sĩ Bàng Uẩn sống trong đời sống thể tục giống như tất cả mọi người,nhưng về những năm cuối đời, một ngày nọ ông chất tất cả tiền nong của cải lên một chiếc ghe và đem đổ xuông sông, làm như vậy để giải thoát ông ra khỏi của cải vật chất. Bàng Uẩn không chỉ tống khứ của cải vật chất, ông còn dửng dưng đối với việc người đời xét đoán về ông. Cái ngã bên trong hấp thu một cách thành tựu cái hiện hữu bên ngoài. Tuy nhiên, Bàng Uẩn không từ bỏ đời sống. Cuộc sống của ông đơn giản hơn, và ông thực hiện những công việc căn bản cho cuộc sống con người, đồng lúc ông sống một đời sống giới luật, đẹp và cao cả.
Sự không bám víu vào của cải vật chất của Bàng Uẩn đối với con ngừoi hiện đại có vẻ cực đoan, và cách sống đời sống tâm linh của ông có thể thực tiễn đối với người thời nay. Giải Pháp là tìm một “con đường trung đạo” giữa đời sống vật chất quá đáng và loại đời sống đầy cảm hứng của Bàng Uẩn. Cuộc sống của ông không nên được hiểu lầm là một đời sống không sản xuất; ông nói: “Những sinh hoạt hắng ngày của tôi không có gì khác thường”. Thực tế, đời sống của ông không có gì khác với điều những người khác làm nền tảng giống nhau, chỉ trừ việc Bàng Uẩn không bám víu, không cắt đứt sự kết nối với sự vật xung quanh, trong khi những ngừoi khác thì bám víu vào sự vật và kết nối một cách cạn cợt.
Kết luận
Thiền Phật giáo nhìn thấy sự cần thiết của một nền giáo dục nổi. Chúng ta không nên quên rằng trong những thế kỷ trước, Tăng sĩ dịch và học hỏi kinh điển, chư Tăng và Ni tiếp nhận nền giáo dục tôn giáo đề ra một cách nghiêm khắc theo giới luật. Kết quả của việc đào luyện tôn giáo đó không tránh tạo ra một loại địa vị trong xã hội, cũng như hầu hết các sinh viên ngày nay muốn có sự ổn định tài chánh và địa vị xã hội bằng việc học. Nhưng thiền Phật giáo không cảm thấy e thẹn khi chỉ ra kết quả bệnh hoạn mà hệ thống giáo dục hiện đại tạo ra. Giáo dục đã trở thành cuộc đua tranh quá mức, và giáo dục làm cho người học trở thành những con người lấy mình làm trung tâm và tranh công, những người thất bại trong việc hiểu được thực chất của con người. Những thế kỷ trước, những tu viện ở Ấn Độ và Trung Hoa cung cấp cho người học sự hướng dẫn tâm linh được coi là nền tảng của việc giáo dục ; trái lại, những đại học ngày nay đặt trọng tâm vào việc huấn luyện nghề nghiệp hơn là giáo dục về tinh thần. Vì vậy, người hiện đại có khuynh hướng nhìn vấn đề tinh thần qua con mắt vật chất, ví dụ khi người ta hỏi “biên lai đóng góp từ thiện của tôi có được trừ vào tiền thuế hay không?”v.v. Thật dễ hiểu lý do vì sao rất nhiều người ngày nay phàn nàn về mọi chuyện và đánh mất sợi dây liên lạc với thế giới tinh thần. Mục tiêu của giáo dục Thiền Phật giáo là kết nối con người trong toàn thế giới. Con đường để làm hòa điệu mọi người với thế giới là khuyến khích mọi chúng sanh tìm thấy Tâm mình, người học được khuyến khích học về ý niệm không – hai (bất nhị) của Phật giáo; giàu và nghèo, có học và thất học, vui và buồn, thành công và thất bại là những mặt khác nhau của chỉ một đồng xu. Hiểu thấu tinh thần không – hai, con người có thể tiến bước trên con đường tâm linh không điểm cuối. Do đó, học Thiền là một sự chuyển hóa cho cả một đời người.
Kết quả của việc học Thiền là một người có học biểu lộ tâm từ bi ra khỏi giới hạn bình thường; một người có học là một người có tâm hồn rộng mở không giới hạn, và sự nhún nhường không gì sánh. Những đức tính này sẽ đến bất ngờ khi một người tìm thấy Tâm của mình, hay Tâm Phật. Như vậy, rõ ràng trong giáo dục Thiền, tiếp nhận nhiều dữ kiện hơn hay chỉ học theo quy ước không được coi là một lối giáo dục tốt. Giáo dục xấu đưa đến hậu quả là sản sinh ra một con người coi trọng bản thân, có cái nhìn cứng nhắc đối với người khác. Đọc, viết và kiến thức quy ước là cần thiết, nhưng “gánh nước và bửa củi” như Bàng Uẩn cũng tốt. Nói cách khác, đời sống của một học giả và đời sống của một tài xế xe buýt đều có ý nghĩa và thiết yếu ngang nhau cho tất cả chúng sanh.
Nền giáo dục nổi có tính chất cứng nhắc, trong khi nền giáo dục ngầm không có đường lối cố định. Với Thiền Phật giáo, nền giáo dục ngầm hay “thực hành”, không phải là thấp kém hơn nền giáo dục nổi. Vì “thực hành” tự do khỏi những hệ thống quy luật, người học có phạm vi lớn hơn và có thể được hưởng và hiểu rõ giá trị của cả nền học vấn nổi và việc “thực hành” trong đời sống hằng ngày. Một người chỉ bị lôi kéo một cách cách đui mê mờ theo con đường học vấn nổi hay sách vở đánh mất một nửa còn lại. Kết quả là sự học của người đó chỉ hoàn tất năm mươi phần trăm . Xin đừng coi những gợi ý này là những lời phê phán; hãy coi đó là một sự khuyến khích việc thực hành và biết tôn vinh những sự việc thông thường hằng ngày để hoàn tất năm mươi phần trăm bị khiếm khuyết. Và như vậy, việc học sẽ trở nên hoàn hảo hơn.
MASATO MITSUDA
Thị Giới dịch từ Zen Buddhist Perspectives on Modern Education
Mục
MASATO MITSUDA,
Thị Giới,
TRÍCH ĐOẠN