Tĩnh Lặng và Trí Tuệ

...Thường thì tâm người không tĩnh tại, nó luôn động vọng, chạy nhảy suốt thời gian. Chúng ta phải làm cho tâm mạnh mẽ. Làm tâm mạnh không giống như làm cho thân mạnh. Để có thân thể mạnh mẽ, ta tập luyện thể dục, gồng ép nó để nó được mạnh mẽ. Để làm tâm mạnh mẽ thì chúng ta phải làm cho nó bình yên, không lăng xăng, không nghĩ này nghĩ nọ. Hầu hết chúng ta không có tâm bình an, nó chưa bao giờ được bình an, nó cũng không có một năng lực định tâm (samadhi), vì vậy chúng ta cần phải thiết lập nó trong một giới hạn. Chúng ta ngồi thiền, với cái ‘‘người biết”. Nếu chúng ta thúc ép hơi thở quá dài hay quá ngắn, chúng ta không có sự cân bằng, và tâm sẽ không được bình an. Chỗ này giống như khi chúng ta bắt đầu đạp bàn đạp máy may. Đầu tiên chúng ta phải tập đạp bắt nhịp, đến khi chân đạp đúng theo nhịp thì chúng ta mới may được.
Theo dõi hơi thở cũng giống vậy. Chúng ta không cần quan tâm hơi thở ngắn dài hay mạnh yếu ra sao, chúng ta chỉ nhìn nó, nhìn theo nó. Ta không xía gì vào nó, chỉ đơn thuần nhìn theo hơi thở tự nhiên đi vào, đi ra. Khi nào nó cân bằng, chúng ta lấy nó làm đối tượng thiền.
Khi thở vào, bắt đầu là ngay chỗ chóp mũi, giữa là nơi lồng ngực, và cuối là ở bụng. Đây là đường đi của hơi thở. Khi thở ra, bắt đầu là ở bụng, giữa là ngực, và cuối là chóp mũi. Chỉ đơn thuần chú ý đường đi hơi thở từ chóp mũi, ở ngực, và ở bụng; rồi ở bụng, ngực, và chóp mũi. Việc chú ý vào ba điểm đó giúp tâm vững chắc, giúp hạn chế những hoạt động của tâm để sự chánh niệm và tỉnh giác có thể khởi sinh dễ dàng. (Tâm hoạt động lăng xăng nhiều như bình thường thì khó có sự chánh niệm và tỉnh giác). Khi sự tỉnh-giác đã an trụ được nơi ba điểm đó, thì ta có thể buông bỏ ba điểm đó và chỉ chú tâm đến hơi thở vào và ra, tập trung duy nhất vào một điểm là chóp-mũi hoặc điểm giữa của môi trên nơi mà hơi thở tiếp xúc khi đi vào và đi ra. Chúng ta không cần phải theo hơi thở nữa, chỉ cần thiết lập sự chú tâm [chánh niệm] trước mặt tại nơi chóp mũi, và chú tâm vào duy nhất điểm này—đi vào, đi ra, đi vào, đi ra. Không cần nghĩ đến điều gì đặc biệt cả, chỉ tập trung vào việc duy nhất này, luôn có sự hiện-diện của tâm. Không cần làm thứ gì khác nữa, chỉ thở vào và thở ra. Chẳng bao lâu tâm sẽ được bình an, hơi thở được tinh tế. Tâm và thân được nhẹ nhàng. Đây là trạng thái đúng đắn của việc thiền tập đúng đắn. Khi ngồi thiền tâm được thanh lọc, tâm trở nên tinh tế, nhưng bất kỳ trạng thái nào của tâm chúng ta cũng cố ý thức rõ về nó, biết rõ trạng thái đó. Hoạt động của tâm đang diễn ra ở đó cùng với sự tĩnh lặng. Có hành vi kéo tâm về một chỗ (đối tượng) để quán niệm [suy xét]. Đó là hành vi vitakha (tầm). Nếu không có nhiều chánh niệm thì không có nhiều vitakha. Tiếp theo đó là sự quán niệm [suy xét] xung quanh đối tượng đó. Đó là hành vi vicara (tứ). Những nhận thức [tưởng] khác nhau trong tâm có thể khởi sinh nhưng sự tỉnh-giác của mình là điều quan trọng—bất cứ thứ gì đang diễn ra ta đều biết nó một cách liên tục. Khi chúng ta thiền sâu hơn, chúng ta luôn tỉnh giác (hằng biết, thường biết) về trạng thái thiền của mình, biết rõ tâm có được thiết lập vững chắc hay không. Như vậy lúc nào cũng có mặt sự tập trung (định) và sự tỉnh giác của tâm. Có một cái tâm bình an không có nghĩa là không có gì đang xảy ra: những nhận thức trong tâm [tâm tưởng] vẫn khởi sinh. Chẳng hạn, khi nói về mức độ bình an đầu tiên của tâm (tầng nhất thiền), chúng ta nói nó có năm yếu tố. Trước hết là vitakha (tầm), vicara (tứ), piti (hỷ) khởi sinh rồi đến sukkha (lạc). Tất cả bốn yếu tố này nằm chung trong cái tâm đã được thiết lập trong sự tĩnh lặng. Tất cả chúng chỉ như là ‘‘một” trạng thái. Yếu tố thứ năm là sự nhất-điểm. Bạn có thể thắc mắc tại sao có sự nhất-điểm trong khi cũng có mặt những yếu tố kia?. Điều này là do bởi tất cả các yếu tố được hợp-nhất với nhau trên nền tảng tĩnh-lặng đó. Tất cả chúng hợp lại được gọi là một trạng thái định (samadhi). Chúng không phải là những trạng thái thường ngày của tâm, mà chúng là những yếu tố của một tầng thiền định. Có năm yếu tố (đặc tính) như vậy, nhưng chúng không hề quấy nhiễu nền tảng sự tĩnh-lặng. Có vitakka (tầm) kéo tâm đến đối tượng (đề mục) quán niệm, nhưng nó không làm quấy nhiễu tâm. Có vicara (tứ) quán niệm xung quanh đối tượng (đề mục) quán niệm, và có yếu tố hoan hỷ (hỷ) và hạnh phúc (lạc) khởi sinh, nhưng chúng không quấy nhiễu tâm. Vì vậy, tâm là một với những yếu tố này. Tầng thiền định (jhana) bình an thứ nhất là như vậy. Chúng ta không cần phải gọi tên là nhất thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền..., chỉ đơn giản gọi nó là ‘‘một cái tâm bình an”. Khi tâm càng lúc càng tĩnh lặng hơn nó sẽ buông bỏ vitakha và vicara (tầm và tứ), chỉ còn lại yếu tố piti và sukha (hỷ và lạc). Tại sao tâm dẹp bỏ tầm và tứ? Bởi khi tâm càng được thanh lọc tinh-tế hơn, những hành vi tầm và tứ trở nên quá thô-tế đối với tâm. (Đường lối của thiền là từ từ đi đến một cái tâm thanh lọc hơn và tinh tế hơn). Ở giai đoạn thiền này, khi tâm dẹp bỏ tầm và tứ, những cảm giác hân hoan tột cùng (hỷ) có thể khởi sinh, nước mắt có thể chảy dài vì mừng vui. Nhưng đến khi tâm càng đạt định thâm sâu hơn, thì yếu tố hoan hỷ (hỷ) này cũng bị dẹp bỏ, chỉ còn lại niềm hạnh phúc (lạc) và sự nhất-điểm của tâm. Rồi cuối cùng tâm cũng dẹp bỏ luôn yếu tố hạnh phúc (lạc), chỉ còn lại một cái tâm được thanh lọc tinh-tế nhất. Trạng thái tâm lúc này chỉ có hai yếu tố là sự buông-xả (upekkha) và sự nhất-điểm (ekaggata). Tất cả các yếu tố khác đều đã bị dẹp bỏ. Tâm tĩnh tại, bất độ Một khi tâm bình an thì điều đó có thể xảy ra. Ta không cần nghĩ nhiều về điều đó, nó tự xảy ra khi những yếu tố nhân duyên chín muồi. Đây được gọi là năng lượng của một cái tâm bình an. Trong trạng thái này tâm không bị buồn ngủ (đờ đẫn, ngu mờ); năm chướng ngại [tham, sân, bất an, đờ đẫn và nghi ngờ] đều đã biến mất. Nhưng nếu năng lượng không đủ mạnh và sự chánh niệm yếu, thì nhiều lúc sẽ khởi sinh những nhận thức (tâm tưởng) gây phiền não. Tâm thì bình an nhưng dường như nó vẫn còn ‘‘một lớp mơ mờ” bên trong sự tĩnh lặng. Nhưng đó cũng không phải là sự đờ đẫn hay buồn ngủ thông thường, một số tâm tưởng sẽ hiện lên – có thể ta sẽ nghe thấy một âm thanh hoặc nhìn thấy một con chó hay thứ gì đó. Nó không rõ ràng, nhưng đó cũng không phải kiểu một giấc mơ. Điều này là do năm yếu tố nói trên đã bị mất cân bằng và yếu đi. Tâm có xu hướng giở trò giả-thật bên trong những tầng tĩnh lặng. Khi tâm ở trong trạng thái này, những tâm ảnh nhiều lúc khởi sinh thông qua bất kỳ giác quan nào, và người thiền không thể nào nhận ra chính xác thứ gì đang diễn ra. ‘‘Ta đang ngủ? Không. Đó là mơ? Không, đó không phải là mơ...”. Những nhận thức (tưởng) này khởi sinh ngay giữa sự tĩnh lặng; nhưng nếu tâm thực sự tĩnh lặng và trong suốt thì chúng ta sẽ không nghi ngờ hay đặt câu hỏi gì về những tâm tưởng hay tâm ảnh đó khi chúng khởi sinh. Những câu hỏi như ‘‘Ta đang bị trôi? Ta đang ngủ hay sao? Ta đang bị lạc tâm?...” sẽ không khởi lên, bởi vì những câu hỏi đó là đặc điểm của một cái tâm vẫn còn đang nghi ngờ. Câu hỏi ‘‘Tôi đang ngủ hay tỉnh thức”... là tâm đang còn bối rối, ngu mờ. Đó là cái tâm đang bị lạc lối bên trong chính nó. Nó giống như mặt trăng đi vào sau đám mây. Ta vẫn còn nhìn thấy trăng nhưng mây đã làm nó mờ đi. Nó không giống mặt trăng thoát ra khỏi đám mây mù, sáng tỏ, sáng rõ và tỏa sáng. Khi tâm được bình an và được thiết lập vững chắc trong sự chánh-niệm và sự hiểu-biếtrõ-ràng thì ta sẽ không còn nghi ngờ hay băn khoăn gì về những hiện tượng khác nhau khởi sinh trong tâm. Tâm sẽ thực sự vượt trên những chướng ngại. Ta sẽ thấy biết một cách rõ rệt mọi sự xảy ra trong tâm như nó là. Ta không còn nghi ngờ nghi vấn bởi vì tâm đang trong suốt và sáng tỏ. Cái tâm đạt đến trạng thái định (samadhi) là như vậy đó. Một số người thấy khó đạt định bởi vì họ không có những khuynh hướng đúng đắn. Họ có định, nhưng nó không mạnh, không chắc. Tuy nhiên, một người có thể đạt sự bình an bằng cách dùng trí tuệ, bằng cách việc suy xét (quán xét, quán niệm) và nhìn thấy sự-thật của mọi sự. Đây là cách dùng trí-tuệ (minh sát) thay vì định-lực (thiền định). Chẳng hạn, không cần thiết phải ngồi xuống thiền thì mới có được sự tĩnh lặng trong tu hành. Chỉ cần hỏi chính mình ‘‘Đây là gì”...và suy xét và giải quyết vấn đề ngay tại đó!. Một người có trí tuệ là như vậy. Người ấy không cần phải có định lực cao sâu, mặc dù cần phải có một mức định lực nào đó: chỉ cần một mức định lực cần thiết đủ để phát triển trí tuệ. Điều đó giống như việc trồng lúa và trồng bắp vậy. Người ta có thể cần ăn gạo nhiều hơn ăn bắp. (Có nơi trồng nhiều bắp, có họ trồng chủ lực nhiều lúa hơn, vì họ ăn nhiều gạo hơn). Sự tu tập của chúng ta cũng vậy: chúng ta có thể dựa chủ lực vào trí-tuệ để giải quyết những vấn đề (hơn là sự định-lực). Khi ta nhìn thấy sự thật, thì sự bình an sẽ khởi sinh. Hai cách tu tập là không giống nhau. Một số người có trí tuệ minh sát và mạnh về trí tuệ, nhưng họ không có nhiều định lực. Khi họ ngồi thiền họ không được bình an cho lắm. Họ thường nghĩ ngợi nhiều, quán sát cái này, suy xét cái kia...cho đến cuối cùng, họ quán xét một cách rõ ràng về sự khổ và sướng và họ nhìn thấy sự thật bên trong chúng. Một số nghiêng về cách tu tập này hơn là thiền định. Khi đang đứng, đang đi, đang ngồi, hay đang nằm, sự giác ngộ có thể xảy ra. Bằng việc nhìnthấy, bằng việc buông-bỏ, họ đạt đến sự bình an. Đạt đến sự bình an thông qua sự thấy biết sự thật, thông qua sự vượt qua nghi ngờ; họ vượt qua nghi ngờ bởi do họ đã tự thân nhìn thấy sự thật cho chính mình. Một số người ít trí tuệ nhưng họ có khả năng định-tâm rất mạnh. Họ có thể nhập định sâu một cách nhanh chóng, nhưng không có nhiều trí tuệ, họ không bắt kịp những ô nhiễm của họ đúng lúc, họ không biết về chúng. Nên họ không giải quyết được những vấn đề. Nhưng dù chúng ta có thiền theo bất cứ cách nào, điều quan trọng của thiền là dẹp bỏ những ý nghĩ sai lầm (tà kiến), để còn lại cách nhìn đúng đắn (chánh kiến). Chúng ta cần loại bỏ sự bất ổn, để còn lại sự bình an. 
Cách tu nào cũng dẫn đến một nơi. Đó chỉ là hai-mặt của việc tu tập, nhưng hai thứ đó, định và tuệ, đi chung với nhau. Chúng ta không thể tu cái này và bỏ cái kia. Thiệt là không có chuyện như vậy. Định và tuệ phải đi chung với nhau. (Đó là lẽ tự nhiên của việc thiền tập đúng đắn). Cái đang quan sát những thứ khác nhau khởi sinh trong tâm trong khi ngồi thiền thì được gọi là sự chánh-niệm (sati). Sự chánh niệm này là điều kiện, thông qua tiến trình tu tập, giúp cho những yếu tố khác khởi sinh. Chánh niệm là sống. Khi chúng ta không có chánh niệm, chúng ta vô tâm buông thả, thì cũng giống như ta đang chết. Nếu chúng ta không có chánh niệm, lời nói và hành động của chúng ta không có ý nghĩa. Chánh niệm đơn giản chỉ là sự nhớ, niệm, hằng nhớ, thường nhớ. Nó là nguyên nhân làm khởi sinh sự-hiểubiết-rõ-ràng (sự tự-tỉnh-giác) và trí tuệ. Những đức hạnh chúng ta đã tu tập cũng không hoàn hảo nếu thiếu sự chánh niệm. Chánh niệm là cái quan sát chúng ta khi ta đang đứng, đang đi, đang ngồi, và đang nằm. Ngay cả khi ta không còn ở trong chánh định (đã thoát ra khỏi trạng thái định samadhi, đã ra khỏi tầng thiền định jhana), thì sự chánh niệm cũng phải nên có mặt xuyên suốt.

Thiền sư Ajahn Chah


Trích: Dẫn Giải Sơ Lược về Thiền Tập
Người dịch: Lê Kim Kha

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét