Hiểu đúng Chánh Định trong Bát Chánh Đạo
Hỏi: Thưa Thầy, tại
sao Đức Phật xếp Chánh Định sau Chánh Niệm trong Bát
Chánh Đạo, có phải để Chánh Niệm nhuần nhuyễn rồi mới định không thưa
Thầy? Vậy Chánh Định trong Bát Chánh Đạo phải hiểu và thực
hành thế nào cho đúng ạ?
- Tâm rỗng lặng tự nhiên là chánh định, khởi
tâm cố tu luyện định này định nọ thì liền mất chánh định, chỉ rơi vào định hữu
vi hữu ngã trong Tam giới mà thôi.
Vì không chánh kiến nên không thấy ra tâm
vốn tự nhiên không động đã là chánh định, nhưng khi khởi lên ham
muốn đắc định liền rơi vào sắc ái (định hữu sắc) hoặc vô sắc ái (định vô sắc)
thì tâm đã động rồi, sau đó lại cố giữ cho nó đứng yên, nhưng dù “tĩnh chỉ” ở
mức nào thì vẫn còn hữu vi hữu ngã và hữu hạn, không thoát khỏi vô minh ái dục
trong Tam giới.
Mỗi chi phần trong Bát Chánh Đạo tuy là một
yếu tố độc lập ứng với mỗi phương diện khác nhau trong đời sống nhưng luôn
tương giao hoà hợp vô cùng chặt chẽ, không thiếu một yếu tố nào nên không thể
đứng riêng rẽ. Nhưng do chú giải sai nên người sau tưởng lầm là riêng rẽ đã
phân chia thành từng nhánh ngọn mà tu nên mới gọi là thời mạt pháp.
Chỉ cần thấy đúng sự thật (chánh kiến) thì
ngay đó có suy nghĩ chân thực (chánh tư duy) hay hướng tâm đúng đắn (như
lý tác ý), hai yếu tố này thuộc về nhận thức đúng (tuệ phần). Khi đã
nhận thức đúng thì về phương diện hoạt động của thân sẽ có nói năng đúng (chánh
ngữ), hành động đúng (chánh nghiệp), và sinh sống đúng (chánh mạng), và về
phương diện hoạt động của tâm thì lúc đó nó liền trở về với thực tại thân thọ
tâm pháp (chánh tinh tấn), và sống trọn vẹn với thực tại chân đế (chánh
niệm) do đó tâm không còn tán loạn nữa (chánh định).
Kinh Tứ Niệm Xứ đức Phật dạy 3 yếu tố tinh tấn,
chánh niệm, tỉnh giác thực ra là 3 chi phần chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh
kiến trong Bát Chánh Đạo. Tuy chỉ nói 3 yếu tố nhưng đức Phật dạy đó là 3 yếu
tố dẫn đạo đúng giúp 5 yếu tố kia cũng đúng theo, không thiếu một yếu tố chánh
đạo nào. Do đó ngay khi đi, đứng, ngồi, nằm, hít thở, ăn uống, nấu nướng, quét
dọn v.v… có tinh tấn chánh niệm tỉnh giác hay trở về trọn vẹn tỉnh thức nơi
thực tại thì liền có đầy đủ Bát Chánh Đạo, chứ không phải hành thiền định trước
rồi hành thiền tuệ sau như nhiều người lầm tưởng.
Nếu giới định tuệ là yếu tố riêng biệt thì chẳng
lẽ khi đức Phật đang thuyết Pháp không phải nhập định thì Ngài không
có chánh định sao? Chẳng lẽ lúc đó Ngài chỉ có chánh tư duy, chánh ngữ thôi,
còn các yếu tố khác thì bất chánh? Do đó quan niệm tứ thiền bát định là
chánh định là một sai lầm quá nghiêm trọng. Trong khi đức Phật dạy
rất rõ tứ thiền bát định trong giáo pháp của bậc Thánh chỉ là hiện tại lạc trú
thôi, không phải là hạnh đoạn giảm (Kinh Đoạn Giảm). Khi nàng Ciñcā
đến vu khống đức Phật tâm Ngài vẫn tịch tịnh, bình thản, tức vẫn luôn
chánh định, nhưng Ngài vẫn nói chuyện bình thường, không cần nhập định
xuất định gì cả. Chỉ có trong thời mạt pháp người ta mới tách rời chánh định ra
khỏi Bát Chánh Đạo để tu mà thành ra định hữu vi hữu ngã và hữu
hạn của ngoại đạo mà trước đây đức Phật đã từ bỏ.
Sự khác
biệt trong tu
tập giữa Đạo
Phật và các Tôn giáo
Hỏi: Khi con thực tập cách
Thầy hướng dẫn con thường lắng nghe, quan sát tâm mình chứ không hành gì
hết. Nhưng khi con đi tham dự khoá tu có phương pháp con đạt
được trạng thái an lạc. Trong đời sống thường nhật, con chỉ thấy thực
tại thân thọ tâm pháp trong mọi hoạt động như nó đang là chứ không thấy đạt
được gì cả, như vậy có đúng không?
- Có 3 cách tu tập khác nhau giúp
phân biệt được giữa Đạo Phật và các Tôn giáo khác:
- Nỗ lực tu luyện để đạt được trạng thái sở đắc nào
đó như hành giả mong đợi.
- Đặt đức tin vào tha lực, cầu xin ban ân, cứu khổ để được một
đời sống an lạc hạnh phúc.
- Trầm tĩnh sáng suốt quan sát thực tại để thấy ra sự thật nơi
chính mình và cuộc sống.
Một số Tôn giáo tu hành theo cách thứ nhất hoàn
toàn dựa vào nỗ lực của mình để mong đạt được lý tưởng. Như đạo Bà-la-môn muốn
tu để Tiểu ngã trở thành Đại ngã chẳng hạn. Cách tu tập thứ nhất lệ thuộc vào
trạng thái mà họ đạt được. Nhưng bất cứ điều gì đạt được do tạo tác đều hư hoại
nên những nỗ lực cá nhân chỉ là Dã Tràng xe cát, những gì được xây dựng lên đều
bị cơn sóng vô thường cuốn đi không còn dấu vết. Cho dù có thành Đại ngã thì
vẫn con loay hoay trong Tam giới mà thôi. Cuối cùng họ cũng đành bất lực trước
tính bất khả tư nghì của Pháp.
Một số Tôn giáo tu hành theo cách thứ hai, hoàn
toàn dựa vào tha lực của Thần Linh hay đấng Cứu Rỗi nào đó mà họ tin là có thể
ban ơn cứu khổ cho mình. Chính khi bản ngã bất lực trước tính bất khả tư nghì
của Pháp thì đức tin vào thay thế nỗ lực cá nhân. Dù là Tôn giáo có tổ chức, có
hệ thống giáo lý hay tín ngưỡng nhân gian thì tính cách vẫn là đức tin vào tha
lực. Họ tin rằng chỉ cần thành tâm cầu nguyện là được đáp ứng. Vì niềm tin,
nhất là niềm tin quần chúng, tạo được một sức mạnh đưa đến thành tựu. Nhưng rồi
cái gì đạt được cũng chỉ là có có không không mà thôi.
Riêng Đạo Phật tu theo cách thứ ba. Vì Đạo Phật
thấy rằng tất cả Chân Lý đều đã có sẵn trong chính mình và cuộc sống nên chỉ
cần trải nghiệm, chiêm nghiệm, quan sát, học hỏi để chứng ngộ Sự Thật thôi chứ
không cần tạo tác để trở thành gì cả, cũng không tin vào tự lực hay tha lực nào
hết. Đạo Phật thấy tất cả các hiện tượng đều vô thường, khổ, vô ngã nên vô ích
khi cố rèn luyện để đạt thành bất cứ điều gì. Đức Phật dạy dù thân, thọ, tâm
hay pháp tốt đẹp như thế nào thì cũng không tham ưu, không bám víu, nương tựa
bất cứ điều gì, kể cả Niết-bàn cũng cũng chỉ chứng ngộ thôi chứ không tự hào,
không xem đó là “Ta”, “của Ta” hoặc “Tự ngã” gì cả. Nhưng khi thấy ra Sự Thật
thì tuy không cần đạt được gì cả mà lại có tất cả, đó chính là sự nhiệm mầu, kỳ
diệu!
"Y
kinh diễn nghĩa tam thế Phật oan"
Hỏi: Dạ thưa thầy con khi
nghe được pháp thoại của thầy thì con sống như thầy khai thị, 4 niệm xứ mọi lúc
mọi nơi thì có người bạn cười con không hiểu gì Phật pháp, rồi bạn gửi cho con
bài kinh 4 niệm xứ rất dài, lúc đó con đang chiên tàu hủ, nên con trả lời bạn
là 4 niệm xứ con đang chiên tàu hủ nếu phải đọc hiểu 4 niệm xứ trong kinh, thì
chưa hết 1 niệm thân tàu hủ đã cháy đen rồi, phải không thưa thầy?
- Đúng là cứ để họ tu theo Kinh điển đi còn
con tu ngay nơi thực tại thân-tâm-cảnh đang là cho khoẻ. Ai chưa thấy mặt trăng
mới cần nhìn qua ngón tay chỉ trỏ, còn ai đang thấy mặt trăng thì nhìn vào ngón
tay làm gì nữa đây! Với dân xứ Kuru đức Phật dạy Tứ Niệm Xứ đầy đủ chi tiết,
nếu không, trình độ dân Kuru không hiểu nổi. Nhưng với Bāhiya thì đức Phật nói
rất đơn giản mà Bāhiya lại chứng ngộ A-la-hán được ngay. Nếu mà lúc đó Bāhiya
lạc vào dân xứ Kuru chắc sẽ nghe họ giảng Kinh Tứ Niệm Xứ đến chết vẫn chưa
chứng ngộ được gì! Thầy đã từng gặp nhiều luận gia chú giải Kinh Tứ Niệm Xứ, họ
chấp vào từng chữ từng câu, sợ “ly Kinh nhất tự tức đồng ma thuyết” nhưng
họ không biết rằng “y Kinh diễn nghĩa tam thế Phật oan”. Cho dù
Phật dạy Kinh Tứ Niệm Xứ chi tiết cách mấy cũng không bằng một phần vô lượng
của bài Kinh sống động đang ngay đây biết đi đứng, khổ vui, thương ghét
này… mà cụ thể như con đang chiên tàu hủ đó. Ngay nơi chiên tàu hủ con có
thể giác ngộ như nàng Paṭācārā dội nước rửa chân mà chứng quả A-la-hán vậy.
Chính vì ngài A-nan biết quá nhiều Kinh mà Phật nhập Niêt-bàn rồi vẫn chưa
chứng được A-la-hán, cứ áp dụng hết Kinh này qua Kinh khác mãi vẫn chỉ căng
thẳng mệt mỏi thêm, nhưng ngay khi buông ra nằm xuống nghỉ ngơi chẳng còn nhớ
Kinh Kệ, nhớ pháp tu gì nữa thì lại chứng quả Bất Sinh! Đúng là:
Trả kinh lại cho kinh
Về chiêm ngoạn chính mình
Không tìm cầu mong đợi
Thấy Pháp vốn Bất Sinh!
Và cuối cùng A-nan cũng phải đọc Kinh Vô Tự mới
giác ngộ được thôi:
Đọc kinh vô tự khỏi lo âu
Chữ nghĩa văn hoa chỉ khổ sầu
Nếu biết tuỳ duyên, tâm rỗng lặng
Nào ngờ thuận pháp, tánh thâm sâu.
Độ chúng
sanh
Hỏi: Kính thưa sư ông con
thường nghe nói "chúng sanh vô biên thệ nguyện độ", mà sao họ lại nổi
sân khi việc đến không như ý của họ?
- Bởi vì họ chỉ lo độ chúng sanh bên ngoài mà
quên độ chúng sanh bên trong. "Chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ" không phải là chúng sanh bên ngoài đâu, đừng hiểu lầm mà lừa
mình lừa người, đó là “tự tánh chúng sanh”, tức là tâm sanh khởi
bên trong mỗi người mà đức Phật gọi là “sinh hữu tác thành” hay “thế
giới tập khởi”.
Muốn độ chúng sanh bên trong này thì phải thường
tinh tấn chánh niệm tỉnh giác, tức thận trọng chú tâm quan sát thực tại thân
thọ tâm pháp ngay nơi mọi sinh hoạt đời sống. Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
mà sân khởi lên không biết tại không chịu “nghiên cơ ư tâm ý sơ động
chi thời” tức không biết quan sát để thấy được lúc sân mới khởi lên.
Thiền Vipassanā hay thiền Kiến Tánh đều nói “thấy tức là hành” chứ không hành
theo khuôn mẫu nào. Thấy tức chánh tri kiến qua trải nghiệm thực mà nhận ra
thực tánh Bất Sinh ngay nơi tướng chúng sinh đang sinh diệt.
Quét Lá
Hỏi: Kính thưa Thầy con
xin được chia sẻ về 2 tuần quét lá ở chùa. Từ việc quét lá con nghiệm
thấy có một đạo lý rất sâu xa trong cuộc sống. Ban đầu con thấy hễ cứ có
lá là con quét, quét lá khô trên sân xi măng dễ hơn quét lá ở trên cỏ và
quét lá khô dễ hơn lá ướt… thế rồi qua đó con dần phát hiện thân thọ tâm pháp
sinh diệt thật rõ ràng, và mọi thứ khổ đau trói buộc đều do thái độ lăng xăng
của bản ngã. Trước đây con tu thiền định và thiền tuệ theo nhiều phương pháp mà
chỉ mong có sở đắc, đến khi nghe pháp thầy giảng con thử đến chùa Bửu Long hành
xem sao. Thầy không dạy phương pháp hành mà chỉ dạy đi quét lá, thì ra quét lá
cũng là hành trong tự nhiên để khám phá chính mình. Qua đó con đã phá được rất
nhiều ảo tưởng về sở tri sở đắc trong những pháp hành trước đây.
- Đúng lắm! Con làm thầy nhớ lại lúc Minh Quang ở
Thụy Sỹ về đây xin hành thiền với thầy nửa tháng, cũng giống như con từ Pháp về
đây học thiền vậy. Minh Quang cũng đã ngộ ra sự thật từ trong quét lá. Chùa lá
rụng nhiều mà không biết thiền trong quét lá thật uổng, phải không con? Sau đây
là hai bài thơ của Minh Quang cảm hứng khi hành thiền quét lá như con:
Hai tuần Thầy dạy quét lá rơi
Nghĩ rằng lỗ nặng, hoá ra lời!
Để lại Bửu Long bụng chữ nghĩa
Tâm bình đối cảnh thản nhiên chơi.
Tưởng đâu Thầy dạy Pháp cao siêu,
Hồn nhiên Thầy chỉ cười thật nhiều
Chổi đây, con quét luôn thằng Tưởng
Thấy ra ngay đó Pháp vô chiêu!