Chứng kiến - Đồng nhất

Trong con người, chiều thứ ba của tâm thức bắt đầu. Con người tồn tại chỉ như tảng đá tồn tại, con người kinh nghiệm sự hiện hữu của mình cũng như bất kì con vật nào kinh nghiệm, nhưng con người cũng có thể nhận biết về hai trạng thái khác. Con người có thể tồn tại, con người có thể biết rằng mình tồn tại, và con người cũng có thể biết rằng mình biết rằng mình tồn tại. Việc kinh nghiệm này tại điểm thứ ba được gọi là chứng kiến.



Tảng đá vô ý thức, con vật có ý thức, nhưng con người thậm chí còn có ý thức về việc có ý thức của mình. Con người nhận biết về tâm thức của mình. Nhưng điều này chỉ là tiềm năng trong con người; mọi người không sẵn sàng trong trạng thái này. Nó có thể là như vậy, nhưng nó lại không là hoàn cảnh. Phần lớn con người đều ở mức con vật: họ tồn tại, họ kinh nghiệm rằng họ tồn tại, nhưng họ không có kinh nghiệm về bất kì cái gì của trạng thái thứ ba, của việc chứng kiến. Nhưng đây là điều đúng duy nhất trong trạng thái thức của họ. Trong trạng thái ngủ, họ rơi lại vào cùng trạng thái như tảng đá - tồn tại đấy, nhưng không nhận biết về điều đó.
Khi bạn ngủ, thế thì không có khác biệt giữa trạng thái của bạn và trạng thái của đá. Trong giấc ngủ của mình bạn chỉ giống như tảng đá. Nếu bạn muốn, bạn cũng có thể nói điều đó theo cách đối lập: tảng đá là hệt như bạn ngoại trừ rằng tảng đá bao giờ cũng trong ngủ sâu. Khi bạn không có kinh nghiệm về việc chứng kiến nhưng bạn lại ý thức về sự tồn tại của mình, thế thì bạn ở trong cùng trạng thái như con vật. Lần nữa, bạn có thể nói điều đó theo cách đối lập: con vật là trong cùng trạng thái như bạn bởi vì nó cũng không kinh nghiệm việc chứng kiến. Và việc sinh của con người thực bắt đầu bằng việc chứng kiến.
Cố hiểu nghĩa của từ chứng kiến đi. Có lẽ đây là từ quan trọng nhất trong toàn thể ngôn ngữ con người, đặc biệt là các từ đã được dùng trong tìm kiếm tâm linh. Chúng ta có thể nói về quá trình chứng kiến về sau, nhưng trước tiên, sẽ là rất tốt nếu bạn có thể hiểu nghĩa của từ này.
Nếu tay bạn bị thương và có đau, bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đang trong cơn đau. Nếu bạn cảm thấy rằng bạn đang trong cơn đau, thế thì chưa có việc chứng kiến đâu. Nếu bạn cảm thấy rằng tay bạn đang trong cơn đau và bạn cũng nhận biết về điều đó, thế thì nhân chứng đã đi vào trong cảm nhận của bạn. Có cơn đói trong dạ dầy bạn, và nếu bạn cảm thấy rằng bạn đói, thế thì không có nhân chứng; bạn bị đồng nhất với cơn đói. Nếu bạn chú ý rằng có cơn đói, nếu bạn nhận biết về điều đó và bạn đơn giản vẫn còn nhận biết; khi bạn không trở nên bị mất hút trong kinh nghiệm này và bạn vẫn còn ở bên ngoài nó, ở một khoảng cách; khi bạn có khoảng cách giữa bạn và kinh nghiệm đó, thế thì khoảng cách này càng lớn, việc chứng kiến sẽ càng lớn. Khoảng cách càng nhỏ, nhân chứng sẽ bị mất. Từ được dùng cho việc thiếu chứng kiến là “đồng nhất” - trở thành bị mất trong cái gì đó.
Việc chứng kiến nghĩa là tách rời khỏi cái gì đó, không bị đồng nhất. Khi một người vẫn còn tách rời với mọi kinh nghiệm của mình - dù nó là đau đớn hay vui thú, dù nó là chết hay sinh, không thành vấn đề cái gì đang xảy ra - khi tâm thức người đó không trở thành một với bất kì cái gì đang xảy ra mà vẫn còn ở ngoài nó, mùi vị của nhân chứng đã bắt đầu. Nếu ai đó quen dùng ngôn ngữ xúc phạm, điều đó lập tức giữ bạn lại; khoảng cách bị phá vỡ. Mũi tên của xúc phạm xuyên vào bạn và khoảng cách bị phá vỡ. Thế thì bạn không nhớ rằng có ai đó người đang xúc phạm, có ai đó người bị xúc phạm - và bạn là một với người đang quan sát cả hai người xúc phạm và người bị xúc phạm.
Trong thực nghiệm thường xuyên của mình với việc chứng kiến, dần dần, dần dần Swami Ramateertha thậm chí đã thay đổi ngôn ngữ của mình. Có lẽ, ngôn ngữ của ông ấy đã thay đổi theo cách riêng của nó bởi vì ông ấy đã thực nghiệm nhiều thế.
Ông ấy ở New York. Vài người xúc phạm ông ấy trên đường, nhưng ông ấy trở về nhà cười to. Ông ấy nói với bạn bè của mình, “Hôm nay là một ngày thật vui! Rama đi ra chợ” - Rama là điều ông ấy tự gọi mình - “và vài người bắt đầu chửi ông ta và xúc phạm ông ta, và ông ta đã phải chịu rắc rối nào đó!”
Bạn ông ta nói, “Ông đang nói dường như ai đó khác đã bị xúc phạm và phải chịu rắc rối.”
Ramateertha nói, “Nhưng đó đích xác là điều đã xảy ra! Bởi vì tôi đã quan sát cả hai - người xúc phạm và người bị xúc phạm.”
Rất khó vẫn còn tách rời khi bạn bị xúc phạm bằng lời. Bạn bỗng nhiên sẽ trở nên hoàn toàn bị đồng nhất và hấp thu việc xúc phạm.
Chính tiềm năng của tâm thức là nó có thể hoặc trở nên bị đồng nhất, hoặc nó có thể ra xa và đứng ở một khoảng cách. Đây là toàn thể tiềm năng của tôn giáo. Nếu tiềm năng này không có đó, thế thì sẽ không có khả năng nào cho tôn giáo tồn tại. Và nếu không có khả năng nào cho trạng thái chứng kiến xảy ra, cũng sẽ không có cách nào để chấm dứt khổ.
Có một triết gia ở Hi Lạp, Epitectus. Có tin đồn về ông ấy rằng ông ấy đã đạt tới trạng thái chứng kiến, nhưng nhà vua không được thuyết phục. Nhà vua nói, “Làm sao người nào có thể chỉ là nhân chứng được? - nhưng chúng ta sẽ thấy...”
Epitectus được triệu tới. Nhà vua cũng triệu tới hai lực sĩ và bảo họ đập gẫy cả hai chân của Epitectus. Epitectus duỗi cả hai chân ra và vua nói, “Sao ông không kháng cự hay tranh đấu lại?”
Epitectus nói, “Tranh đấu là hoàn toàn vô nghĩa bởi vì các lực sĩ khoẻ hơn tôi nhiều. Mọi kháng cự sẽ hoàn toàn là vô ích. Vả lại, kéo dài hành động của tự nhiên này sẽ tạo ra nhiều đau đớn cho Epitectus, cho nên chân ông ta càng bị bẻ gẫy sớm chừng nào, câu chuyện sẽ càng kết thúc sớm chừng ấy.”
Vua nói, “Ông ngụ ý gì?”
Epitectus nói, “Người được gọi là Epitectus, chính là cái tên được trao cho thân thể này và trao cho người ông ấy triệu tới, sẽ bị đau quá nhiều.”
Vua hỏi, “Thế về ông thì sao?”
Epitectus đáp, “Ta sẽ quan sát! Ta sẽ quan sát sự ngu xuẩn của ông, ta sẽ quan sát sức mạnh của các lực sĩ của ông, ta sẽ quan sát rắc rối của Epitectus - ta sẽ quan sát tất cả những điều đó.”
Thế rồi vua nói, “Việc nói chẳng chứng minh được cái gì. Chân ông sẽ phải bị đập gẫy.”
Chân ông ấy bị đập gẫy, và Epitectus liên tục quan sát. Thế rồi ông ấy nói, “Nếu ông xong việc rồi, bây giờ ta muốn đưa Epitectus về nhà.”
Nhà vua bắt đầu khóc! Ông ta chưa bao giờ quan niệm nổi rằng điều này lại là có thể. Ông ta sụp xuống dưới chân Epitectus và hỏi về bí mật của hiểu biết này.
Epitectus nói, “Ngay cả bây giờ ta cũng không phải là người mà ông đang chạm vào chân. Ta đang thấy rằng nhà vua đang khóc. Bây giờ Epitectus lại trong rắc rối, một loại rắc rối khác - bây giờ chân của ông ấy đang bị chạm vào! Một thoáng trước đây chúng đã bị giữ để bị bẻ gẫy, bây giờ chúng lại bị giữ trong kính trọng... nhưng ta đang quan sát tất cả mọi điều này.”
Việc chứng kiến nghĩa là không có sự đồng nhất với bất kì kinh nghiệm về bất kì cái gì - với bất kì kinh nghiệm nào, tôi nói thế! Không kinh nghiệm nào chạm vào bạn cả. Bạn đứng ở một khoảng cách, bên ngoài nó. Sự tách rời của bạn với kinh nghiệm không bị ảnh hưởng bởi bất kì lí do nào.
Khi bạn bước đi trên đường, bạn có thể làm điều đó theo cách bạn vẫn bước, hay bạn cũng có thể bước đi theo cách mà hành động bước đang xảy ra và bạn đang chứng kiến nó, quan sát nó. Sự đồng nhất của bạn với từng hành động sẽ phải bị phá vỡ; sự đồng nhất với tất cả các kinh nghiệm sẽ phải bị bỏ lại đằng sau. Khi bạn đang ăn, bạn có thể ăn theo cách bạn vẫn ăn, nhưng bạn cũng có thể ăn theo cách hành động ăn đang xảy ra và bạn chỉ đang quan sát nó.
Khi bạn bắt đầu trở nên nhận biết theo cách này trong từng mọi khoảnh khắc, thế thì với nỗ lực thường xuyên này để nhận biết, nhân chứng sẽ được sinh ra. Thế thì bên trong bạn sẽ có một tâm thức chỉ quan sát. Nó chỉ là người quan sát, người biết; nó không bao giờ là người làm.
Dù đó là trong trạng thái thức hay trong trạng thái mơ hay trong trạng thái ngủ, trong từng trạng thái đó, mọi kinh nghiệm đều có ba khía cạnh: hiện tượng của việc kinh nghiệm, đối thể của kinh nghiệm, và người kinh nghiệm. Đối thể của kinh nghiệm là điều bạn kinh nghiệm hay có liên quan theo cách nào đó. Nếu bạn đang ăn, thế thì thức ăn là đối thể của kinh nghiệm; bạn ăn nó, cho nên bạn là người kinh nghiệm, người làm hành động này; và mối quan hệ giữa đối thể của kinh nghiệm và người kinh nghiệm là hiện tượng kinh nghiệm. Việc kinh nghiệm là mối quan hệ giữa hai điều này. Hay bạn cũng có thể hiểu nó theo cách này: mặt trời mọc và bạn đang ngắm nhìn nó: mặt trời là cái được thấy, bạn là người thấy, và mối quan hệ giữa hai điều này là việc thấy. Chiếc gai đâm vào chân bạn và nó gây đau: cái đau là cái được biết, bạn là người biết, và cây cầu giữa hai điều này là việc biết, việc cảm nhận.
Mọi kinh nghiệm đều có thể được chia ra thành ba khía cạnh này: đối thể ở bên ngoài bạn và là cái mà bạn, người kinh nghiệm, đang kinh nghiệm; cái tôi đây, bản ngã, cái đang kinh nghiệm, và cây cầu, mối quan hệ giữa hai điều này, cái là kinh nghiệm. Bạn có thể hiểu ba điều này. Và nếu có cái gì đó ở bên ngoài ba điều này, cái thứ tư, cái cũng ở bên trong bạn, là nhân chứng.
Nếu có chiều thứ tư bên trong bạn đang quan sát ba điều này từ bên trên - cái đang quan sát thức ăn được ăn, người đang ăn và cây cầu của việc kinh nghiệm giữa hai điều này - nếu cái gì đó trong bạn có thể quan sát toàn thể mọi sự từ một khoảng cách, thế thì khả năng thứ tư này được gọi là nhân chứng.
Bạn kinh nghiệm ba điều đầu tiên, nhưng bạn không kinh nghiệm điều thứ tư. Bạn kinh nghiệm chỉ ba trạng thái của tâm thức mà tôi đã nhắc tới trước đây. Trong cả trạng thái thức và mơ, chỉ có cái được kinh nghiệm, người kinh nghiệm và kinh nghiệm. Khi bạn đi vào ngủ sâu, thế rồi khi bạn thức dậy vào buổi sáng bạn nói, “Sảng khoái làm sao! Giấc ngủ của tôi thảnh thơi và dễ chịu làm sao!” Cảm nhận này về vui thích rút lại thành sự phân chia giữa cái được kinh nghiệm, người kinh nghiệm và kinh nghiệm - nhưng bạn chẳng có ý tưởng nào về cái thứ tư. Trong tất cả những kinh nghiệm này, bạn thậm chí không có một thoáng nhìn về cái thứ tư.
Thiền là cách để đánh thức trạng thái thứ tư, để gợi mở nó, để cho nó một cơ sở và để đi vào nó. Bất kì điều gì bạn có thể làm, trở nên nhận biết về ba điều này và chú ý liệu điều thứ tư cũng có đó không. Và khi bạn tiếp tục nhớ nó, điều thứ tư sẽ bắt đầu nảy sinh ra - bởi vì nó thức tỉnh chỉ qua việc hồi tưởng. Không có cách khác để đánh thức nó.

Từ "Chuyến bay từ một mình tới một mình"