Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
Dịch:
“Nhạn bay trên không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Nước không có ý lưu giữ bóng hình.”
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
Dịch:
“Nhạn bay trên không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Nước không có ý lưu giữ bóng hình.”
I. NIÊN ĐẠI VÀ CON NGƯỜI CỦA HƯƠNG HẢI
Theo sách Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn, Hương Hải người làng Án Độ huyện Chân Phúc tỉnh Nghệ An sinh năm 1627, vốn là người thông minh xuất chúng, lịch lãm về nho học, đỗ Hương Cống (cử nhân) năm 18 tuổi, được chọn vào phủ Chúa Nguyễn. Sau đó cử nhận Tri Phủ huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Vào năm 25 tuổi ông rất hâm mộ đạo Phật, đã từng đàm luận với các vị Thiền Sư Trung Hoa đang hành đạo tại Quảng Trị.
Ba năm sau (1655) ông từ quan đi xuất gia với ngài Viên Cảnh thiền sư, ngài đặt cho pháp danh là Huyền Cơ Thiện Giác, pháp tự Minh Châu Hương Hải, ngày nay chúng ta thường gọi ngài là Hương Hải. Sau đó ngài ra vân du ở đảo Tiêm Bút La, cảnh trí nơi đây thích hợp cho việc tu trì nên ngài lập am để chuyên tu. Đạo hạnh của ngài cao thâm, quan dân thảy đều ngưỡng mộ. Có lần quan trấn thủ Thuần Quận Công thỉnh ngài về đất liền tụng kinh cầu an cho phu nhân, và cả gia đình quy y theo. Và quan Tổng thái giám Hoa Lệ Hầu cung thỉnh ngài về đất liền lập đàn sám hối, cầu cho hết bịnh mà quan Tổng đã mắc phải. Chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Chu 1691-1752) nghe tiếng bèn cử người ra cung đón, khi ngài về đến nội địa đích thân chúa Nguyễn ra đón tiếp, hỏi thăm, ủy lạo, rồi sau đó lập Thiền Tĩnh Viện ở trên núi Qui Cảnh để ngài ở. Các quan trong triều và đủ mọi tầng lớp nhân dân các tỉnh đến quy y học đạo rất đông. Thiền Tĩnh Viện trở thành trung tâm truyền bá, phát triển, nổi tiếng ở đàng Trong.
Trong số những người đến tham học có quan Thị Nội Giám Gia Quận Công vốn là người đàng Ngoài, quan nội giám thường gặp gỡ Hương Hải để nghe thuyết pháp, có người dèm pha vu cáo ông cùng Thiền Sưđang âm mưu trốn về Bắc. Chúa Nguyễn hay tin đem việc tra xét nhưng không có bằng cớ để buộc tội. Chúa Nguyễn bèn truyền cho ngài phải vào ở Quảng Nam. Vì sự đối đãi kèm theo nghi kỵ nên Hương Hảiquyết chí ra Bắc thật. Năm 1682 Thiền Sư cùng với 50 đồ đề vượt biển ra Bắc đến trấn Nghệ An, thuyền ghé bến ngài đến trình diện ở đồn Trần Lao do Yên Quận Công Trịnh Gia trông coi. Sau đó ông mới tâu về triều Chúa Trịnh cho người đón tất cả về kinh hỏi han mọi việc. Sau đó chúa sai quan Trấn Thủ Sơn Nam lấy đất lập chùa mời ngài trụ trì ở đó.
Những tháng năm bập bềnh sóng gió đã trôi qua, ngài bèn dùng thời gian còn lại trong việc tu tập và nghiên cứu sáng tác, dịch thuật hơn 30 tác phẩm để lại cho đời. Trong số những tác phẩm bị thất lạc chúng ta chưa tìm ra đầy đủ.
Hương Hải Thiền Sư vốn đã uyên thâm về Nho học trước khi đi xuất gia, hầu hết lúc bấy giờ theo đường công danh cử nghiệp bút nghiên phải thông nho mới mong đỗ đạt. Hương Hải quan niệm sự dung hòa giữa Nho giáo và Phật giáo có thể bổ túc cho nhau trên phương diện trị an.
“Lên tận nguồn Nho trông bát ngát
Vào sâu biển Pháp thấy mênh mông”
(Nho nguyên đãng đãng đăng di khoát
Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm)
Qua hai câu thơ trên, Hương Hải quả có cái nhìn muốn kết hợp hai tôn giáo lúc bấy giờ, đàng nào cũng có cái mênh mông bát ngát của nó, chúng ta chỉ là kẻ đứng ngắm sự rộng lớn nầy, không thể dùng con mắt mà đo lường được. Trong những tháng ngày an lành tu học, không còn bị hạch hỏi lôi thôi nữa ngài cảm tác bài thơ với sự biết ơn nơi đang ở:
“Sư tử quật trung sư tử
Chiên đàn lâm lý chiên đàn
Nhất thân hữu lại càn khôn khoát
Vạn sự vô ưu nhật nguyệt tường”
Dịch:
Sư tử nằm hang sư tử
Cây trầm mọc trong rừng trầm
Một thân nhờ có càn khôn rộng
Ngày dài tháng rộng đã an tâm.
Đi đâu dù có được tiếp đãi ân cần, quyền cao trọng vọng, thì thỉnh thoảng vẫn nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ làng xóm, nơi đã chôn nhau cắt rún, lớn lên bên khóm trúc, hàng cau, làm sao quên được, sợ rằng nhiều kẻ không hiểu được cái khổ tâm khi phải ra đi, ngài làm mấy câu thơ để chia xẻ với nỗi cô quạnh tha phương của mình:
Hoặc thị hoặc phi nhân mạc thức
Thuận hành nghịch hành thiên mạc trắc
Mãn sơn nhân xướng Chá cô từ * (* điệu hát)
Thác nhận Hồ gia thập bát phách.
Dịch:
“Là thị là phi ai có biết
Rằng xuôi rằng ngược lẽ trời hay
Chá cô khúc ấy ca đầy núi
Tưởng nhạc người Hồ mười tám giây.”
Vào năm 1700 thiền sư Hương Hải rời chùa Trấn Thủ Sơn Nam, về chùa Nguyệt Đường tổng An Tảo, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, nơi đây đông đảo người về quy y học hỏi. Vua Lê Dụ Tôn có lần đón ngài về kinh thuyết pháp và lập đàn cầu tự, vua rất tôn kính quý mến, thường hỏi ngài về phương pháp tu hành.
Năm 1714, chúa Trịnh Căn có vào chùa Nguyệt Đường tham bái, cảm xúc chúa ngự viết bài thơ:
Danh Nam trừng trải đã hay danh
Trình độ này âu hợp chốn trình
Pháp giới chăm chăm tuyên diệu pháp
Kinh lâu rờ rỡ diễn chân kinh
Công nhiều nhà có công vô lượng
Thế thuận vây lên thế hữu tình
Ngán tục chẳng hề mùi tục lụy
Lòng thiền tu cẩn chốn thiền quynh.
Năm Ất Mùi 1715, sáng ngày 13 tháng 5, sau khi tắm xong thiền sư khoác y, đeo tràng hạt, đội mũ trang nghiêm ngồi kiết già tịch, hưởng thọ 88 tuổi. Đệ tử đắc pháp của ngài rất đông, có vị được phong chức Tăng Thống.
II. QUAN NIỆM VỀ THIỀN CỦA HƯƠNG HẢI
Tìm đến tư tưởng Hương Hải, một trong những cây đuốc sáng rực trong Thiền Tông ở thế kỷ 17, chúng ta sẽ cảm nhận một cách sâu sắc qua lời văn trong sáng, dễ hiểu, Hương Hải không thích lý luận nhiều, nên văn thơ của ngài hầu hết đều mang cốt cách một người dản dị, muốn mọi người ai cũng có thể đọc hiểu và nương theo đó để tu hành, ngài rất ít dùng đến thuật ngữ bí ẩn của Thiền, phần nhiều làm cho kẻ thưởng thức cảm thấy bớt căng thẳng và đi vào tư tưởng một cách từ từ, tiệm ngộ chứ không đốn ngộ như những Thiền Sư mà chúng ta hay bắt gặp. Dĩ nhiên Thiền vẫn có những công năng như nhau trong việc nhắm đến trực giác, dù bằng phương cách nào đều do sự xử dụng của từng thiền sư, có ai dám bảo Thiền của Thần Tú thua Huệ Năng? Bởi vì Thần Tú là Thần Tú, Huệ Năng là Huệ Năng, có khác nhau tùy vào lối dụng công của từng vị. Tư tưởng Thiền của Hương Hải phản ảnh được sự tương quan giữa chúng sanh và Phật, mê với ngộ v.v… Bằng vào những liên hệ nầy Hương Hải hé mở cho chúng ta thấy đâu là điều nên thực hiện để đạt được giải thoát, và phương pháp để thành tựu. Trước hết theo Hương Hải phải hoán chuyển cái Tâm vọng của mỗi người để đạt đến Chơn Tâm và bí quyết để thành tựu trong việc Giác Ngộ là “Vô Tâm” theo Hương Hải. Tương quan giữa Phật và chúng sanh Thiền Sư diễn tả như sau: “Khi mặt trờilên chiếu sáng thiên hạ, thì hư không, không vì đó mà sáng, khi mặt trời lặn bóng tối bao trùm khắp thiên hạthì hư không không vì đó mà tối. Sự sáng và sự tối tranh cướp lẫn nhau, còn hư không vẫn lặng lẽ tự nó là nó. Tâm Phật và chúng sanh cũng vậy. Nếu quan niệm Phật là thanh tịnh quang minh, quan niệm chúng sanh là dơ bẩn mờ tối, thì có tu qua nhiều kiếp như số cát sông Hằng cũng không đạt được giác ngộ.” Sự sáng và tối hoàn toàn tùy thuộc vào không gian, thời gian, nhưng nếu theo Chơn Tâm tròn đầy thì không phải lúc không có mặt trời là tối; vì lẽ cái biết là tối đó do đâu mà có, nếu cái tối có mà không có cái biết được tối không? Như vậy tối và sáng duyên nhau nhưng cái biết thường còn không mất, nếu có mất thì sao khi sáng lại biết là sáng? Đức Phật đã từng hiển lộ điều này trong kinh Thủ Lăng Nghiêm khi chỉ chơn tâm cho ngài A Nan. Sự hiện diện của Đức Phật như chúng ta đã biết nhằm một mục đích duy nhất mở bày cho chúng sanh đi vào tri kiến giác ngộ. Trước đó chúng ta không hề nhận ra được chân lý này, nhưng trong mỗi con người đều có khả năng thành Phật tiềm ẩn, vì trần lao phiền não che khuất nên không vén mở được cái bổn lai diện mục của mình. Đức Phật có thể làm được điều này mà tôi, ngoài ra ngài không có quyền năng đưa một ai đi đến giải thoát mà chính kẻ ấy không tự mình đi qua quá trình giác ngộ, Phật cũng từ con người bình thường như những chúng sanh khác, ngài hơn chúng ta là biết xử dụng trí tuệ để từ đó đi đến giải thoát. Nếu tất cả chúng ta đều xử dụng đến trí tuệ của mình thì chắc hẳn sẽ được giải thoát như ngài. Huyền Giác trong chứng đạo ca cũng đã cho chúng ta một quan niệm về điều nầy.
“Thoắc giác rồi Như Lai thiền
Sáu độ muôn hạnh thể tròn nguyên
Trong mộng lao xao bày sáu nẽo
Tỉnh ra bằn bặt chẳng ba nghìn”
Mê, Ngộ theo Hương Hải cũng vì đối đãi với nhau mà có, duyên với nhau mà lập, nên không thật, nếu tìm cầu chân mà bỏ vọng ắt lạc vào ngàn trùng, vọng che khuất nên Ngộ không mở bày, một khi chân hiển lộthì vọng tự nó tiêu diệt vì có vọng nên mới có chân. Ngài nói: “Mê và Ngộ dựa vào nhau, Chân và Vọng vì đối đãi với nhau mà có. Nếu tìm Chân bỏ Vọng thì không khác gì người sợ bóng theo hình mà cứ chạy ở ngoài nắng. Nếu biết rõ vọng là chân thì cũng như đi vào nơi rợp tự khắc bóng biến mất.”
Mê và Ngộ cũng tựa như kẻ bộ hành đi trong đêm tối vốn sợ ma, dù không biết ma là gì cả, nhưng khi đi có cảm tưởng đằng sau có ai đi theo, hễ bước nhanh thì nghe tiếng đi nhanh, đi chậm thì nghe tiếng đi cũng chậm, đến khi quýnh lên vụt chạy, nghe tiếng ấy chạy theo, cứ như thế mà cắm đầu cắm cổ chạy mãi đến nơi có đèn sáng, cố lấy bình tĩnh quay đầu nhìn lại thì không trông thấy ai cả. Mê và Ngộ cũng tương tựnhư thế khi chưa tìm ra được lý lẽ của nó thì thấy có hai thái cực, nhưng thật ra hai là một, mà một là hai, nếu ngộ thì không còn thấy có hai mà tự nó tiêu hủy, hỗ trợ lẫn nhau, còn nếu mê thì muôn kiếp vẫn phải trôi lăn trong vòng sống chết, mịt mù tăm tối.
Ngoài ra Hương Hải còn cho chúng ta thấy rất nhiều về khía cạnh của những tương quan như: thiện ác, tâm cảnh, nhằm cho ta có một ít khái niệm thực tế trong ấy. Tất cả những điều này không ngoài mục đíchtạo lại sự quân bình mà cái tâm của ta vốn đã dong ruổi quá nhiều theo trần thế, hay bóp méo sự thật cũng như tạo nên những xung đột một cách phi lý ở nội tại, chấp nhầm những gì mà ta có thể quan niệm đo lường, sờ mó được, hầu như ta duyên theo đó để khởi nên những phân biệt. Bản chất Giác Ngộ là phải vượt ra ngoài những đối đãi, cần phải trở về khám phá trong tận cùng tâm thức, đừng dong ruổi theo ngoại vật, phong tỏa lục căn bằng cách tiếp xúc với trần cảnh nhưng đừng bao giờ bị đắm nhiễm trong ấy.
“Thấy theo sắc mà hết
Nghe theo tiếng mà bay
Trở về là thượng sách
Hôm qua và sáng nay.”
(Nhãn quan tùy sắc tận
Nhĩ thức trục tranh tiêu
Hoàn nguyên đương biệt chỉ
Tạc nhật dữ kim tiêu.)
Ở khía cạnh khác về Tâm và Cảnh, hầu hết chúng ta cứ luôn nắm bắt theo trần cảnh nên bỏ mất cái chân tâm thường hằng của mình, vì trần cảnh vốn sinh diệt không thật, nếu theo đó chỉ làm cho ta đau khổ. Điều quan trọng, buông bỏ thế giới bên ngoài để soi sáng chiếu rọi vào Chơn Tâm, nhưng không có nghĩa bỏ cảnh để về tâm, bởi lẽ cảnh đều do tâm mà hiện, bỏ cảnh tìm tâm là lắp thêm một cái đầu trên một cái đầu, cứ việc làm hiển lộ cái Chân Tâm thì tự nhiên cảnh cũng trở thành chân, đừng có quan niệm là tách rời nó ra hai thể, thì cứ luống công chạy ngược xuôi để tìm chân, mà thực ra ngay chân có vọng, trong vọng có chân. Để tóm tắt tư tưởng của Hương Hải trong những tương quan ở trên điều cần nhất là không trốn chạy hiện hữu. Thiền Sư viết:
“Thân vọng tới gương soi bóng
Bóng với thân vọng giống nhau
Chỉ muốn giữ thân bỏ bóng
Vọng thân vốn có thực đâu ?
Thân kia với bóng đồng nhất
Một không một có được nào ?
Kẻ muốn giữ một bỏ một
Cách xa sự thật biết bao !
Người nào ưa thánh ghét phàm
Sẽ mãi sanh tử phiền não
Phiền não vì tâm mà có
Vô tâm phiền não ở đâu ?
Hễ đừng phân biệt chấp tướng
Đương nhiên chứng được đạo mầu”
Bóng với thân vọng giống nhau
Chỉ muốn giữ thân bỏ bóng
Vọng thân vốn có thực đâu ?
Thân kia với bóng đồng nhất
Một không một có được nào ?
Kẻ muốn giữ một bỏ một
Cách xa sự thật biết bao !
Người nào ưa thánh ghét phàm
Sẽ mãi sanh tử phiền não
Phiền não vì tâm mà có
Vô tâm phiền não ở đâu ?
Hễ đừng phân biệt chấp tướng
Đương nhiên chứng được đạo mầu”
Theo Hương Hải, một khi tâm an tịnh đó là Thiền chứ không cần phải tìm cầu đâu xa “Trong đời sống hàng ngày không gì không phải đạo, hễ an tâm thì đó là Thiền”. (Nhật dụng vô phi đạo, Tâm an tức nhị Thiền)
III. NHỮNG TÁC PHẨM CỦA HƯƠNG HẢI
Cuộc đời của Hương Hải đã để lại sự nghiệp trước tác, chú giải, phiên dịch khá nhiều hơn 30 tác phẩm, hầu hết những tác phẩm nầy chưa tìm lại được.
- Giải Pháp Hoa Kinh
- Giải Kim Cương kinh lý nghĩa
- Giải Sa Di giới luật
- Giải Phật Tổ tam kinh
- Giải A Di Đà kinh
- Giải Vô Lượng Thọ kinh
- Giải Địa Tạng kinh
- Giải Tâm kinh đại điển
- Giải tâm kinh ngủ chỉ
- Giải Chân Tâm trực thuyết
- Giải Pháp Bảo Đàn Kinh
- Quán Vô Lượng thọ kinh quốc ngữ
- Phổ khuyến tu hành
- Bảng điều nhất thiên
- Cơ duyên vấn đáp tinh giải
- Sự lý dung thông, thơ.
Để có ý niệm về thơ nôm của ngài, chúng ta đọc một đoạn trong Sự Lý Dung Thông:
“Những thánh hiền nguồn nhân biển quả
Xưa tu hành trí đã rộng cao
Trong nơi ba cõi ra vào
Mười phương tri thức ai vào khá nghi
Nguyện in thanh hải tịnh trì
Thềm lan bóng trúc hề chi viên ngần
Phên dày nước chảy khôn ngăn
Mây mỏi ngoài trần há động non cao
Sự nài bao hang sâu tiếng dội
Đèn hãy dùng chớ nỗi chờ trăng
Đường lên diệu lộ cao thăng
Giải hành hai chữ há rằng làm sai
Tạng Như Lai làu làu thanh tịnh
Nắm hương lòng hằng kính hằng tin
Đòi phen giải thoát tự nhiên
Dụng chân như trí, gương thiền ráng thâu
Lộc dương theo dấu hay đâu
Nê ngưu vào biển rộng sâu khôn tìm
Bao nhiêu chim bay về lạc tổ
Mây che ngoài ngỡ ổ hang xưa
……………
Đạo viên minh ngại chi chân tục
Miễn lòng rồi tri túc thời nên
Năm mươi năm phẩm dưới trên
Luyện Tam muội hỏa chí bền kim cương
Nhân thiên mấy đấng phong quang
Tam hiền thập thánh một đàng cao siêu
Cày mây cuốc nguyệt đã nhiều
Chứng vô thượng sĩ danh tiêu mới nồng.”
Ngoài ra còn có những bài thơ do thầy Thích Trí Hiếu sưu tầm và được đăng tải trong tập san Đuốc Tuệ (số 7 ra ngày 21.1.1936) hai bài thơ của Hương Hải, một bài vịnh cảnh xuân và bài khác tặng quan Trấn Thủ Sơn Tây. Hai bài nầy không thấy chép trong Kiến Văn Tiểu Lục.
1. “Tam dương khai thái chuyển hồng quân
Cửu thập thiều quang sắc sắc tan
Dạ tỉnh thanh phong chiêu ngọc lộ
Nhật tình thụy khí ái từ vân
Sơn cao lâm thụ hy kỳ mỹ
Bình địa niên hoa phức úc huân
Xứ xứ nghên trường ca vạn thọ
Nhân nhân hòa mục vĩnh thiên xuân”
Và bài thứ 2 đó là:
“Hướng minh quy mệnh sự quân vương
Yết kiến tôn công khánh thọ đường
Tài dụng kinh luân kim đức hạnh
Âm thi lễ nghĩa quý văn chương
Ngoại trừ đạo tặc bình dân ái
Nội dường chinh liêm sĩ tốt cường
Quyền trấn Nam Giao danh tứ hải
Khuông phù quốc chính lạc quần phương.”
Trong khi nhàn hạ Sư thường ngâm hai bài thơ nầy:
1. (Thành thị du lai ngụ tự chiền
Tùy cơ ứng biến mỗi thời nhiên
Song triêu nguyệt đáo thiền sàng mật
Tùng tiếu phong xuy tĩnh khách miên
Sắc ảnh lâu đài minh sắc diệu
Thanh truyền trung cổ diễn thanh huyền
Nguyên lai tam giáo đồng nhất thể
Nhậm vận hà tằng lý hữu thiên.)
Dịch:
“Dạo qua thành thị nghĩ chùa chiền
Tùy cơ ứng biến lẽ đương nhiên
Trăng dòm cửa mở giường kê sát
Gió thổi thông cười khánh ngủ yên
Lâu đài rực rỡ màu đẹp đẽ
Chuông trống vang rền tiếng diệu huyền
Ba giáo nguyên lai cùng một thể
Xoay vần đâu có lẽ nào thiên.”
2. (Thượng sĩ thường du bát nhã lâm
Trần cư bất nhiễm liễu thiền tâm
Liêm khê Trình thị minh cao thức
Tô Tử Hàn Văn khế diệu âm
Vạn tượng sum la cao di hiển
Nhất biểu tạo hóa mật nan tầm
Nho nguyên đãng đãng đăng di khoát
Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm.)
Dịch:
“Thượng sĩ thường chơi cảnh tùng lâm
Phong trần không vướng hội thiền tâm
Liêm khê Trình Hiệu người thông suốt
Tô Tử Hàn Văn hiểu diệu âm
Muôn ngàn cảnh vật bày dễ thấy
Tạo hóa một bầu khó truy tầm
Nguồn nho thăm thẳm lên càng rộng
Bể thích trùng trùng xuống lại thâm.”
Qua những ý niệm về thơ của Hương Hải đã biểu lộ phong cách một con người giải thoát. Đồng thời thơ bằng chữ nôm của Hương Hải đã đóng góp thật nhiều cho nền Văn Học nước nhà, nhất là lãnh vực chữ nôm ở thế kỷ thứ 17.
IV. NHỮNG BÀI THƠ HAY CỦA HƯƠNG HẢI
Những bài thơ hay nhất của Hương Hải là lúc vua Lê Dụ Tôn đến tham vấn. Hương Hải không thuyết phápdài dòng mà chỉ đọc mấy bài thơ, chứa đựng cả tư tưởng thâm sâu mà ngài đã khai quật được từ nội tâmcủa mình. Hiển lộ nên sự thâm đắc chứng nghiệm tâm linh mà ngài đã phải tốn công để đạt được.
Vua Lê Dụ Tôn hỏi sư rằng: “Trẫm nghe Lão sư học rộng nhớ nhiều, vậy xin Lão sư thuyết pháp cho trẫm nghe để trẫm được liễu ngộ”
Sư tâu: “Xin bệ hạ chí tâm nghe cho thật hiểu bốn câu kệ nầy:
Phản văn tự kỷ mỗi thường quan
Thẩm sát tư duy tử tế khan
Mạc giáo mộng trung tầm tri thức
Tương lai diện thượng đổ sư nhan.
Dịch:
“Hằng ngày quán lại chính nơi mình
Xét nét kỹ càng chớ dễ khinh
Trong mộng tìm chi người tri thức
Mặt thầy sẽ thấy trên mặt mình.”
Có lẽ đây là một trong những phương pháp mà Hương Hải đã nương vào đó để tựu thành giác ngộ. Kiểm soát nội tâm trong từng phút giây là then chốt quan trọng để có thể mở được cánh cửa tâm linh. Dòng tâm thức vốn phức tạp và loạn động, hưng khởi theo bản năng dính mắc, nô lệ vào trần cảnh. Khi nhãn quan bắt gặp đối tượng, tâm sẽ theo đó khởi lên những vọng động sai biệt. Chính vì duyên theo trần cảnh nên phải trôi lăn trong vòng sống chết vô tận. Nếu xoay tất cả những công năng ở bên ngoài, trở lại quán chiếuvào tận cùng thể tánh, quật khai nguyên lý giác ngộ trong chính mình, thì may ra thành tựu được sự nghiệp chứng đắc.
Kiểm soát những vọng niệm bằng cách, tỉnh thức trong từng niệm hưng khởi và biết một cách minh mẫnniệm ấy có phù hợp trong hành trình đạt được thức giác hay không? Ý thức một cách thường nghiệm, biết được ngõ ngách xuất hiện của nó, hướng nó đi vào nẽo có thể bùng lên ánh sáng thực ngộ. Đừng bao giờ khởi lên ý niệm tiêu diệt hay ngăn chận, như thế gây nên trạng thái nội chiến, cần nhất là phải xoay chiều, hoán chuyển từ mê sang giác ngộ, hoán chuyển từ vọng sang tịnh, và trong vọng có tịnh và cũng có thể vọng chính là tịnh, hoàn toàn tùy thuộc vào mức độ chứng nghiệm, thẩm định một cách siêu thể.
Đừng bao giờ nương vào những quan niệm do trí thức xúi dục, dù đó là điều nghe có vẻ phù hợp với trạng huống, nhưng nếu không khéo quan sát cặn kẽ dễ bị lầm lẫn, bởi vì tri thức được hưng khởi còn nằm trong phong tỏa của vô minh. Như giấc mộng huy hoàng đâu đó còn lại nuối tiếc rỗng không, đừng tìm cầu bên ngoài dù đó là ý niệm thiện, nhưng ngoài tâm vốn không có Phật, Phật được hình thành từ trong những khám phá tra vấn ở nội tại.
Bồ Tát Quan Thế Âm thành tựu được giải thoát, cũng nhờ xoay chuyển cái nghe ở bên ngoài, để nghe chính sự hưng động nơi tự tâm, nhờ quán sát nội tâm, soi thấu ngũ uẩn mà chứng nhập giải thoát. Chưa một ai có thể đạt được giác ngộ mà không đi qua chặng đường quật khởi nội tâm, mọi hỗ trợ nơi trần cảnhkhông hẳn là yếu tố quan trọng, nếu không lấy cái tâm làm gốc. Hẳn chắc một ngày nào đó bộ mặt nghìn đời xuất hiện, khi đã đi hết con đường khám phá tận cùng ở nội tâm.
Vua Lê Dụ Tôn lại hỏi; “Thế nào là ý của Phật.”
Sư liền đáp:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
Dịch:
“Nhạn bay trên không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Nước không có ý lưu giữ bóng hình.”
Sư liền đáp:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
Dịch:
“Nhạn bay trên không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Nước không có ý lưu giữ bóng hình.”
Điều đắc ý nhất của Hương Hải là “vô tâm” – không có nghĩa là thờ ơ, không chú ý. Nhưng ngược lại đây có những công năng siêu việt hơn, không để bất cứ những tư duy, tương quan nào có thể dính mắc, không bị những sai sử của sai biệt, không khởi lên những khuynh hướng đối lập, nhị nguyên. Như một sự rỗng suốt thanh thoát ở trong tâm, chưa một lần khởi lên những phân biệt, tâm, cảnh, chủ thể, khách thể. Đến đi trong cuộc đời, tiếp xúc với trần thế, nhưng không bao giờ đắm nhiễm, ung dung tự tại, làm tất cả nhưng tất cả không làm hề hấn được cái tâm không nầy.
Hình ảnh của con nhạn bay ngang qua dòng nước là một hình ảnh đẹp và nên thơ nhất, nó chứa đựng cả một tư duy nhưng nếu, không nằm ở cung bậc tương ứng thì khó mà bắt gặp cái tuyệt diệu của nó. Nếu không một lần nhìn thật lâu vào dòng nước, những thăm hỏi tra vấn với sự lạnh lùng, thờ ơ, giá buốt và mặc nhiên chấp nhận ở dòng nước, thì khó mà tìm ra được đáp số đúng mức cho dòng tâm. Sự lạnh lùng dung chứa của hư không để cho nhạn tung bay, nhưng có bao giờ tìm được hình hài dấu vết trong bầu trời mênh mông ấy. Dòng nước đã từng yên lặng trong những tháng năm đằng đẵng, đã biết bao nhiêu sự đi qua của muôn loài, khi thấp thoáng, khi in đậm nét, nhưng chỉ đi qua chứ nước không một lần lưu lại bóng.
Đó là bài thơ nổi tiếng độc đáo nhất của ngài, ảnh hưởng của nó vô cùng mãnh liệt, một khi kẻ thưởng thứcbắt đúng được cung nhịp, bao nhiêu mơ ước bỗng thành mây khói, chỉ còn lại một hình hài không được dệt nên khung ảnh, bàng bạc mênh mang trong không gian mà không hề lưu lại dấu vết. Nhạn bay thật nhiều trên nền trời xanh biếc, đã bao nhiêu năm trôi qua, nhưng cứ mỗi lần nhìn lên bầu trời chúng ta vẫn chưa hề bắt gặp bóng dáng ấy in trên nền trong xanh. Nếu truy tìm một cách kỹ lưỡng, chỉ thấy đâu đó những áng mây lững lờ vốn đã từng in bóng của cuộc đời trong ấy, nhưng không một lần nào mây cố tình nhận bóng, mà hình như nếu có sự tương phản nào đó, thì do con người truy tìm mà vọng tưởng hưng khởi nên, cho đó là thấy một cách thấp thoáng, mờ ảo, tưởng tượng. Không vì những quan niệm của con người mà áng mây ấy phải lưu lại dấu, mây là mây và nó cứ lững lờ bay nhẹ theo làn gió, chứ không ai có thể bắt nó phải in hình hài vào được, vì nó là nó kia mà. Nếu có, thì cơn gió vô tình cùng với mây trôi về phương trời vô định, mà gió cũng chỉ làm phận sự đưa đường cho mây đi mà thôi, nhưng mây không chịu đi thì gió cũng đành chịu, mây cũng đã từng phủ trên đỉnh núi chơ vơ mà không cần phải đi đâu cả.
Dòng nước cũng đã lắm phen rơi vào cảnh tương tợ như thế, đã bao nhiêu biến thiên của cuộc đời, và cũng đã bao lần bóng nhạn bay qua sóng nước, nhưng rồi chìm khuất vào cõi vô cùng chẳng lưu lại dấu vết gì.
Nếu Tâm con người trong và yên lặng như mặt nước hồ thu, đón nhận tất cả không khởi lên lòng thương ghét, vương vấn. Mọi vật đi qua không lưu lại dấu vết, đó không phải là điều giải thoát hay sao ?
Như Hùng