“Tư tưởng là những điều quen thuộc, những cái đã biết, không hể vươn tới điều mới lạ, cái hoàn toàn chưa biết. Chúng ta không thể bắc cầu nối kết giữa cái tầm thường và điều thánh thiện, không thể đo lường cái vô cùng bằng cái hữu hạn, không thể nhốt gió ngàn phương trong một vốc tay.”
Ông khẳng định:
“Chân Lý thì bất khả tri. Trí năng và cảm thọ không thể tìm được lối vào Chân Lý. Không có đường vào Chân Lý, và một phương cách tiếp cận nó chỉ là cái ngụy tạo của một đầu óc tham lam. Mọi con đường và phương cách của cái tôi tính toán phải được phá bỏ hoàn toàn”
(Truth is unknowable. Intellect and feeling cannot make their way to it. There is no way to it, and a method to it is the invention of a greedy brain. All the ways and means of the calculating self must be destroyed wholly).
Cũng vậy, một con cá sinh trưởng trong môi trường nước không thể hình dung được cảnh trí trên bờ. Một người đui mù bẩm sinh không thể nghĩ gì, nói gì về cái huy hoàng của thế giới màu sắc. Sống trong thế giới ý niệm, tư tưởng, chúng ta không thể nghĩ bàn về cảnh giới phi ý niệm, phi tư tưởng...
....
Đạo Phật khẳng định mọi người đều có sẵn Chân Tâm, Phật Tánh, và đều có khả năng giác ngộ, giải thoát, tận diệt vô minh, giải trừ phiền não.
...
J. Krishnamurti còn đi xa hơn nữa:
“Một người bình thường thất học, mù cả hai mắt, cụt cả tay chân, vẫn có thể thành đạt hạnh phúc giải thoát ngay trong cuộc sống này”.
Ông vẫn bảo:
“Bản chất của mặt hồ là thanh bình, phẳng lặng, sở dĩ nó xôn xao, dậy sóng là vì có gió thổi. Chỉ cần gió ngưng thổi, mặt hồ sẽ trở về trạng thái bình an, vắng lặng ban đầu”.
Tâm thức con người cũng vậy, nó bất an, vọng động, phiền não, là do ý niệm, tư tưởng vô minh, tham dục vị ngã quấy phá. Khi những vọng tưởng, tập niệm, tham dục bị bứng gốc, tận diệt, Chân Tâm bản lai, tự do, thanh bình, an lạc lại sáng tỏ, thường hằng.
Cảnh giới Niết Bàn (Nibbana)
Tâm thức Giải Thoát tức Cảnh Giới Niết Bàn (Nibbana hay Nirvâna) hay Chân Tâm, Tự Tính, cái sống tự nhiên nơi con người, là tâm thái uyên nguyên, bản lai vô nhiễm, có sẵn ở mỗi người, vô cùng tịch lặng, trong sáng, cực kỳ mới lạ, tự do, tự tại, thanh bình, an lạc, chan hòa tình thương tới muôn loài, muôn vật. Khi hoát nhiên trực ngộ Chân Tâm, chứng nghiệm cảnh giới Niết Bàn, Tâm thức Giải Thoát, Lục Tổ Huệ Năng đã phải sửng sốt reo lên:
“Hà kỳ Tự Tính bản thanh tịnh !
Hà kỳ Tự Tính bản bất sinh diệt !
Hà kỳ Tự Tính bản tự cụ túc !
Hà kỳ Tự Tính bản vô động dao !
Hà kỳ Tự Tính năng sinh vạn pháp !”.
Pháp Bảo Đàn Kinh. Phẩm Hành Do.
(Đâu ngờ Tự Tính vốn thanh tịnh !
Đâu ngờ Tự Tính vốn không sinh diệt !
Đâu ngờ Tự tính vốn tự đầy đủ !
Đâu ngờ Tự tính vốn không dao động !
Đâu ngờ Tự Tự Tính sinh ra vạn sự, vạn vật !).
....
Trí Tuệ siêu việt
Trong phần Hình Nhi Thượng của Nho Giáo, bậc tu dưỡng đạt đạo tột cùng được gọi là Thánh Nhân. Bậc Thánh Nhân thì chí nhân, chí thiện, chí tĩnh, không tư tâm, tư dục, thông suốt Bản Thể uyên nguyên của Vũ Trụ (tức Thái Cực), tương cảm, tương ứng với Thiên lý, biết được cái Nguyên Tính của muôn vật, hành sử luôn trung chính, hợp với đạo Thái Hòa của trời đất, đức sánh ngang với trời đất, góp phần vào sự hóa dục của thiên địa, vạn vật.
Tâm Giải thoát là tâm hư vô, tâm không, tâm vô trước, vô nhiễm, trong sáng, sạch làu mọi vọng niệm. Bậc Giác Ngộ không hồi tưởng, tái tạo những cảm nhận, những hình ảnh của thực tại để lưu giữ, cưu mang, tích lũy, gom chứa để kiến tạo cái Ta ý niệm.
Tam Tổ Tăng Xán (? – 606), trong Tín Tâm Minh, bảo:
“Nhất thiết bất lưu, vô khả ký ức”
(Không lưu giữ bất cứ ý niệm nào, không có vấn đề ghi nhớ). Tâm Giải thoát không lưu giữ một mảy may vọng tưởng, kinh nghiệm, những dấu vết dĩ vãng, những cặn bã quá khứ.
J. Krishnamurti cũng khuyên mọi người:
“Se liberer du Connu”
(Hãy buông bỏ tất cả sở tri, sở kiến).
Không lưu giữ ý niệm, không ghi nhớ, buông bỏ mọi sở tri, sở kiến có nghĩa là trút sạch toàn bộ những tâm tư, vọng tưởng vị ngã mê lầm, chứ không phải quên bỏ tất cả những ký ức về sự kiện, vốn tối cần cho cuộc sống.
...
Tâm giải thoát như mặt hồ phẳng lặng, phản chiếu tức thời hình ảnh đàn cò trắng bay qua. Khi đàn cò trắng bay đi, mặt hồ lại trong sáng, sạch làu, không lưu lại mảy may dấu vết. Cũng vậy, khóm trúc lao xao khi gió động, nhưng lại tịch lặng, im lìm, phăng phắc lúc ngọn gió qua đi, không lưu lại một chút xôn xao, vọng động.
Tâm Giải Thoát được Trang Tử phác họa như sau:
“Tận kỳ sở thụ hồ thiên, nhi vô kiến đắc, diệc hư nhi dĩ ! Chí nhân dụng tâm nhược kính: bất tương, bất nghịch, ứng nhi bất tàng…”
(Tiếp nhận tất cả những gì từ sự vật, mà không thủ đắc gì cả, vì nó vốn là trống không ! Bậc đạt Đạo thể hiện tâm như gương soi: không chạy theo, không chống đối, cảm nhận mà không tích chứa….).
Tâm người đạt Đạo là tâm vô trước, tâm Không tuyệt đối như gương soi, cảm ứng vẹn toàn với sự vật, tuyệt không chủ ý, dụng tâm ghi khắc, tích lũy, cưu mang để nhận xét, cân nhắc, so đo, lựa chọn.
Bankei (1622-1693), một thiền sư đạt Đạo lừng danh Nhật Bản trước đây, nói:
“Tâm Phật (tâm Giác Ngộ) cũng ví như gương soi, nó không cố ý phản chiếu hay không phản chiếu. Vì không có ví dụ nào tốt hơn nên tạm dùng gương soi để ví với tâm Phật. Thực ra, tâm Phật thường chiếu, diệu dụng gấp vạn lần gương soi. Dù cho miệng bạn rộng lớn tới mức có thể nuốt trọn cả trời đất cũng không thể diễn tả hết được tâm Phật bằng lời”.
...
tâm Giải Thoát tiếp xúc, cảm nhận, cảm thông trực tiếp với thực tại đang hiện tiền, nên thấy sự vật y như thực tướng của nó, y như nó đang là, đang hiện hữu. “Tiếp nhận _ đáp ứng”, “cảm _ ứng”, “tri – hành” xảy ra tức khắc, đồng thời, không có sự can thiệp của tư tưởng, nên cách hành sử của bậc Giác Ngộ là vô vi, không cân nhắc, so đo, tính toán, lựa chọn, liên kết nhân quả, mà vô cùng linh hoạt, minh mẫn tuyệt đối, bén nhạy cực kỳ, diệu dụng vô biên, thiện hảo cùng cực, tự nhiên đồng nhất với cái phải, cái đúng, cái đẹp.
....
Tam Tổ Tăng Xán bảo:
“Cứu cánh cùng cực, mạc tồn quỹ tắc”
(Cái cùng cực của tâm thái Đạt Đạo là không bám víu vào một khuôn pháp, chuẩn mực nào cả).
Với bậc Giải Thoát, không có sự phân biệt giữa điều chính yếu và điều không chính yếu, giữa hơn và kém, giữa trọng và khinh, giữa thiện ác, thị phi, tốt xấu, thành bại, vinh nhục, đắc thất, thọ yểu, sinh tử, quý tiện, thân sơ...Đó là cái tâm điềm đạm, vô phân biệt, tâm bình đẳng, tâm bất nhị, tâm vô giản trạch, tâm như như, không chia cách chủ thể và đối tượng, tâm năng và tướng sở, ta và người, bản ngã và sự vật, lý và sự......
Phật dạy: “Ta Bà tức Tịnh Độ, Phiền Não tức Bồ Đề”.
Lão Tử bảo: “Khúc tắc toàn. Uổng tắc trực. Oa tắc doanh. Tệ tắc tân. Thiểu tắc đắc. Đa tắc hoặc…Cao dĩ hạ vi cơ. Quý dĩ tiện vi bản…Kiệm cố năng quảng”
(Cái gì khuyết để lại toàn. Cái gì cong rồi lại ngay. Cái gì vơi để rồi lại đầy. Cái gì cũ để rồi lại mới. Cái gì ít để rồi lại được. Cái gì nhiều để rồi lại mê… Cao lấy thấp làm nền. Sang lấy hèn làm gốc… Dè sẻn mới có thể rộng rãi).
Khổng Tử nói: “Vô khả, vô bất khả” (Không có gì nhất định là nên, không có gì nhất định là không nên).
Tam Tổ Tăng Xán nói:
“Chí Đạo vô nan. Duy hiềm giản trạch...
Mê sinh tịch, loạn. Ngộ vô hảo, ác...
Vi, thuận tương tranh. Thị vi tâm bệnh...”
(Đạo lớn không khó. Cốt đừng lựa chọn...Người mê mới phân biệt cái tịnh và cái động. Bậc Giác Ngộ không chia cách tốt, xấu...Phải trái chống nhau chính là tâm bệnh...).
...
“Cứu cánh cùng cực, mạc tồn quỹ tắc”
(Cái cùng cực của tâm thái Đạt Đạo là không bám víu vào một khuôn pháp, chuẩn mực nào cả).
Với bậc Giải Thoát, không có sự phân biệt giữa điều chính yếu và điều không chính yếu, giữa hơn và kém, giữa trọng và khinh, giữa thiện ác, thị phi, tốt xấu, thành bại, vinh nhục, đắc thất, thọ yểu, sinh tử, quý tiện, thân sơ...Đó là cái tâm điềm đạm, vô phân biệt, tâm bình đẳng, tâm bất nhị, tâm vô giản trạch, tâm như như, không chia cách chủ thể và đối tượng, tâm năng và tướng sở, ta và người, bản ngã và sự vật, lý và sự......
Phật dạy: “Ta Bà tức Tịnh Độ, Phiền Não tức Bồ Đề”.
Lão Tử bảo: “Khúc tắc toàn. Uổng tắc trực. Oa tắc doanh. Tệ tắc tân. Thiểu tắc đắc. Đa tắc hoặc…Cao dĩ hạ vi cơ. Quý dĩ tiện vi bản…Kiệm cố năng quảng”
(Cái gì khuyết để lại toàn. Cái gì cong rồi lại ngay. Cái gì vơi để rồi lại đầy. Cái gì cũ để rồi lại mới. Cái gì ít để rồi lại được. Cái gì nhiều để rồi lại mê… Cao lấy thấp làm nền. Sang lấy hèn làm gốc… Dè sẻn mới có thể rộng rãi).
Khổng Tử nói: “Vô khả, vô bất khả” (Không có gì nhất định là nên, không có gì nhất định là không nên).
Tam Tổ Tăng Xán nói:
“Chí Đạo vô nan. Duy hiềm giản trạch...
Mê sinh tịch, loạn. Ngộ vô hảo, ác...
Vi, thuận tương tranh. Thị vi tâm bệnh...”
(Đạo lớn không khó. Cốt đừng lựa chọn...Người mê mới phân biệt cái tịnh và cái động. Bậc Giác Ngộ không chia cách tốt, xấu...Phải trái chống nhau chính là tâm bệnh...).
...
Tâm bậc Giác Ngộ không bám víu vào cái thiện, cái đúng, cái đẹp nên không vướng mắc vào cái ác, cái sai, cái xấu. Tâm còn giằng co, tranh chấp, giữa phải trái, đúng sai, còn chọn lựa giữa điều thiện và điều ác chính là tâm bất thường, bất an, không thanh bình, vắng lặng, tâm điên đảo, tâm bệnh vậy.
...
Tam Tổ, trong Tín Tâm Minh, nói:
“Chân Như Pháp Giới.
Vô tha vô tự…..
Nhất tức nhất thiết.
Nhất thiết tức nhất”
(Cảnh giới Giải Thoát không phân biệt ta và người… Một là tất cả.Tất cả là một). .
Vĩnh Gia Huyền Giác (665-713), một Thiền sư nổi tiếng đời Đường, trong Chứng Đạo Ca đã viết:
“Tâm thị Căn, Pháp thị Trần
Lưỡng chủng do như cảnh thượng ngân
Ngân cấu tận trừ quang thể hiện
Tâm, Pháp song vong Tánh tức Chân”
(Tâm là Căn, Pháp là Trần
Hai cái như vết bụi trên gương soi
Khi bụi bám không còn thì sự trong sáng hiển lộ
Tâm và Pháp đều quên sạch tức Tánh Chân thật).
Tánh Chân Thật, tức tâm Giải Thoát là tâm vong bặt cả chủ thể (tức Tâm, hay Căn tức cái ta, cái tôi, bản ngã) và đối tượng (tức Pháp hay Trần, tức tha nhân, ngoại vật).
...
J.Krishnamurti bảo:
“Hình như chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng sủa của một con chó, tiếng khóc của một đứa trẻ, hay tiếng cười của một người đi qua. Chúng ta tự tách biệt với mọi vật, và từ sự tách biệt này, chúng ta nghe, nhìn vạn vật. Sự tách biệt này có tính chất hủy hoại vì nó hàm chứa xung đột và rối loạn. Nếu lắng nghe tiếng chuông với sự tĩnh lặng trọn vẹn, bạn có thể cưỡi lên nó, hay đúng hơn, tiếng chuông có thể chở bạn băng qua thung lũng, vượt qua quả đồi. Bạn chỉ cảm nhận được cái đẹp của sự tĩnh lặng ấy khi bạn không tách biệt với tiếng chuông, khi bạn là một phần của tiếng chuông. Tâm thiền là dứt bỏ sự tách biệt, nhưng không bằng hành động của ý chí hay mong cầu”
(We hardly ever listen to the sound of a dog’s bark or to the cry of a child or the laughter of a man as he passes by. We separate ourselves from everything, and then from this isolation look and listen to all things. It is this separation that is so destructive, for in that lies all conflict and confusion. If you listened to the sound of bells with complete silence you would be riding on it, or rather, the sound would carry you across the valley and over the hill. The beauty of it is felt only when you and the sound are not separated, when you are part of it. The meditative mind is the ending of the separation, but not by any action of will and desire)
...
Tổ Sư Hiệp Khí Đạo (Aikido), Morihei Uyeshiba (1882 – 1969), trong giây phút xuất thần, bừng tỉnh, ông thấy bản ngã tan biến, để hòa đồng vào Vũ Trụ bao la, tràn ngập yên vui vô hạn và tình thương mênh mông. Từ đó, ông sáng lập ra môn phái Aikido, một ngành võ thuật dịu dàng, khoan hòa, nhân ái, đặt căn bản trên tình thương vô hạn của trời đất, hiệp nhất khí lực con người với khí lực Vũ Trụ.
...
Tam Tổ, trong Tín Tâm Minh, nói:
“Chân Như Pháp Giới.
Vô tha vô tự…..
Nhất tức nhất thiết.
Nhất thiết tức nhất”
(Cảnh giới Giải Thoát không phân biệt ta và người… Một là tất cả.Tất cả là một). .
Vĩnh Gia Huyền Giác (665-713), một Thiền sư nổi tiếng đời Đường, trong Chứng Đạo Ca đã viết:
“Tâm thị Căn, Pháp thị Trần
Lưỡng chủng do như cảnh thượng ngân
Ngân cấu tận trừ quang thể hiện
Tâm, Pháp song vong Tánh tức Chân”
(Tâm là Căn, Pháp là Trần
Hai cái như vết bụi trên gương soi
Khi bụi bám không còn thì sự trong sáng hiển lộ
Tâm và Pháp đều quên sạch tức Tánh Chân thật).
Tánh Chân Thật, tức tâm Giải Thoát là tâm vong bặt cả chủ thể (tức Tâm, hay Căn tức cái ta, cái tôi, bản ngã) và đối tượng (tức Pháp hay Trần, tức tha nhân, ngoại vật).
...
J.Krishnamurti bảo:
“Hình như chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng sủa của một con chó, tiếng khóc của một đứa trẻ, hay tiếng cười của một người đi qua. Chúng ta tự tách biệt với mọi vật, và từ sự tách biệt này, chúng ta nghe, nhìn vạn vật. Sự tách biệt này có tính chất hủy hoại vì nó hàm chứa xung đột và rối loạn. Nếu lắng nghe tiếng chuông với sự tĩnh lặng trọn vẹn, bạn có thể cưỡi lên nó, hay đúng hơn, tiếng chuông có thể chở bạn băng qua thung lũng, vượt qua quả đồi. Bạn chỉ cảm nhận được cái đẹp của sự tĩnh lặng ấy khi bạn không tách biệt với tiếng chuông, khi bạn là một phần của tiếng chuông. Tâm thiền là dứt bỏ sự tách biệt, nhưng không bằng hành động của ý chí hay mong cầu”
(We hardly ever listen to the sound of a dog’s bark or to the cry of a child or the laughter of a man as he passes by. We separate ourselves from everything, and then from this isolation look and listen to all things. It is this separation that is so destructive, for in that lies all conflict and confusion. If you listened to the sound of bells with complete silence you would be riding on it, or rather, the sound would carry you across the valley and over the hill. The beauty of it is felt only when you and the sound are not separated, when you are part of it. The meditative mind is the ending of the separation, but not by any action of will and desire)
...
Tổ Sư Hiệp Khí Đạo (Aikido), Morihei Uyeshiba (1882 – 1969), trong giây phút xuất thần, bừng tỉnh, ông thấy bản ngã tan biến, để hòa đồng vào Vũ Trụ bao la, tràn ngập yên vui vô hạn và tình thương mênh mông. Từ đó, ông sáng lập ra môn phái Aikido, một ngành võ thuật dịu dàng, khoan hòa, nhân ái, đặt căn bản trên tình thương vô hạn của trời đất, hiệp nhất khí lực con người với khí lực Vũ Trụ.
...
Lão Tử bảo:
“Cổ chi thiện vi sĩ giả.
Vi diệu, huyền thông.
Thâm bất khả thức”
(Bậc Đạt Đạo xưa kia thì vi tế, diệu mầu, huyền đồng, thông suốt, thâm viễn khôn lường).
...
Lão Tử bảo:
“Cổ chi thiện vi sĩ giả.
Vi diệu, huyền thông.
Thâm bất khả thức”
(Bậc Đạt Đạo xưa kia thì vi tế, diệu mầu, huyền đồng, thông suốt, thâm viễn khôn lường).
...
Từ Bi vô hạn
...
Trong kinh Pháp Cú (Dhammapada), Phật Tổ bảo:
“Oán thù dứt oán thù,
Thế gian không hề có.
Từ bi diệt oán thù,
Ấy luật tắc ngàn thu”.
(Lấy thù hận đáp trả thù hận là tiếp sức cho thù hận. Trên đời chưa bao giờ có chuyện oán thù tận triệt hết oán thù. Lấy từ bi đáp lại oán thù, oán thù sẽ tiêu tan, tận diệt. Đấy là lẽ thực của muôn đời).
Oán thù tạo sinh oán thù, tình thương là phương thuốc vạn năng để chữa lành mọi căn bệnh hận thù. Đó là luật tắc hiển nhiên của thập phương, tam thế, muôn chốn, muôn đời.
Tôn chỉ của Phật Giáo là:
“Dĩ ân báo oán”.
Lão Tử dạy:
“Báo oán dĩ đức…Thiện giả, ngô thiện chi. Bất thiện giả, ngô diệc thiện chi…Thượng vi sĩ giả, bất vũ”
(Lấy đức báo oán….Với người tốt, ta lấy điều tốt đáp lại. Với người không tốt, ta vẫn lấy điều tốt đáp lại…Bậc Thượng Sĩ không có tâm địa, hành vi hung bạo).
Trình Y Xuyên (1033-1107), một danh Nho, nhà luân lý đạo đức nổi tiếng đời Tống cũng có câu tương tự:
“Ư ngã thiện giả, ngã diệc thiện chi. Ư ngã ác giả, ngã diệc thiện chi”
(Người tốt với mình, mình tốt lại. Người xấu với mình, mình cũng tốt lại).
Sư Tổ Morihei Uyeshiba của Aikido khẳng định:
“Khi bạn vừa có ý định tấn công là bạn đã thua rồi”.
Hoàng Đế triết gia thời Cổ La Mã Marc Aurel (thế kỷ thứ 2TCN) bảo:
“Cách báo thù hay hơn cả là đừng bao giờ làm giống kẻ thù”.
Lấy hung bạo đối xử lại hung bạo, oán hận sẽ chập trùng bất tận. Lấy ôn hòa đáp lại hung bạo, xung đột, tranh chấp sẽ tận diệt.
Thánh Cam Địa, tức Mahatma Gandhi (1869 – 1948) của Ấn Độ, đã lãnh đạo dân Ấn, dùng phương pháp “Bất Bạo Động” để đối phó lại ách thống trị hung tàn của người Anh. Nghe lời ông, từng dòng người thản nhiên, điềm tĩnh, không một nét căm thù, giao động, sợ hãi, sẵn sàng đứng xếp hàng để vào tù, để lính Anh nạp vào nòng đại bác, trong các buổi hành hình. Đây không còn là cái can trường, anh hùng, can đảm của người tráng sĩ, mà là đức điềm đạm chí cực, là “cái Dũng của Thánh Nhân”, theo cách gọi của học giả Nguyễn Duy Cần, khiến kẻ thù phải lạ lùng, sửng sốt và nhượng bộ.
Nhà hiền triết cổ Hy Lạp Socrate (470-399) đã ung dung bình thản cầm chén thuốc độc uống cạn khi bị bọn đố kỵ vu oan, bức tội.
Chúa Jesus vẫn tuyệt nhiên trầm lặng, bao dung, tha thứ khi bị kẻ ác hành hình.
Nhị tổ Huệ Khả (486-593) vẫn thản nhiên không một lời biện minh, chống đối khi bị xử giảo (chết chém) vì những lời vu cáo của bọn xấu.
Đại sư Hám Sơn (1546-1623) bị vua Minh sai dùng cực hình treo ngược, cắt da xẻo thịt, ép cung để cưỡng bách hoàn tục và lưu đày ở Lĩnh Nam mười mấy năm. Trong những tình huống cực kỳ nghiệt ngã ấy, Đại Sư vẫn nhẫn nhục tột cùng, nhất tâm chánh niệm, tuyệt không vọng ngữ, sân hận…
Lão Đại Sư Hư Vân (1840-1960) trong suốt 101 năm hoằng dương Phật pháp tại Hoa Lục, nhiều lần bị vu cáo, giam cầm, tra tấn, đánh đập tới chết đi sống lại… vẫn một mực bình tâm niệm Phật, không một lời kêu ca oán trách.
Chân Sư Maharishi Ramana (1879-1950), bậc đạt Đạo nổi tiếng từ bi, minh triết, miền nam Ấn Độ, đã cho bọn cướp ăn uống, tuyệt không một khởi tâm thù hận, ngay sau khi chúng lục phá đạo viện và đánh đập ông bầm tím khắp người để khảo của, mà không thấy có tiền bạc, tài sản gì.
....
Với bậc Giác Ngộ, vạn hữu diễn ra như một thế giới hiện tượng, một trường sáng tạo, luân lưu bất tuyệt, nhất kiến, bất khả tái kiến, nhật tân, nhật nhật tân, đổi mới không ngừng, tinh khôi trong từng giây khắc. Cái diễm phúc chan hòa, cái yên vui tràn ngập, có khuynh hướng tự nhiên là chia sẻ, ban phát cho vạn sự, vạn vật: đó là tình thương tự nhiên, vô vụ lợi, vô kỷ, mênh mang, bao la, vô hạn, đó là chính là Tâm Từ Bi, Tâm Vô Ngã, Tâm Đại Bình Đẳng không thân, không sơ, không khinh, không trọng, không bạn, không thù, không hàm ân, không di hận, chỉ chan hòa tới mọi người, muôn vật một tình thương mênh mông, vô hạn, đồng đều, bình đẳng, như nhau.
Krishnamurti bảo:
“Từ bi là hình thức cao nhất của Trí tuệ. Tình thương thì tự nhiên, không động cơ, không mục đích, như một đóa hoa tỏa hương thơm không phải vì người ngửi nó hoặc người quay lưng với nó. Từ bi chỉ xuất hiện khi hoàn toàn vắng mặt Bản Ngã. Khi tâm bạn đầy ắp những ý kiến, so đo, ghen tị, thèm khát, mong muốn chiếm hữu, vươn tới, trở thành… thì làm sao bạn có được tình thương yêu đích thực. Trong khói đen dày đặc không thể xuất hiện ngọn lửa trong sáng, thuần khiết”.
...
Trong kinh Pháp Cú (Dhammapada), Phật Tổ bảo:
“Oán thù dứt oán thù,
Thế gian không hề có.
Từ bi diệt oán thù,
Ấy luật tắc ngàn thu”.
(Lấy thù hận đáp trả thù hận là tiếp sức cho thù hận. Trên đời chưa bao giờ có chuyện oán thù tận triệt hết oán thù. Lấy từ bi đáp lại oán thù, oán thù sẽ tiêu tan, tận diệt. Đấy là lẽ thực của muôn đời).
Oán thù tạo sinh oán thù, tình thương là phương thuốc vạn năng để chữa lành mọi căn bệnh hận thù. Đó là luật tắc hiển nhiên của thập phương, tam thế, muôn chốn, muôn đời.
Tôn chỉ của Phật Giáo là:
“Dĩ ân báo oán”.
Lão Tử dạy:
“Báo oán dĩ đức…Thiện giả, ngô thiện chi. Bất thiện giả, ngô diệc thiện chi…Thượng vi sĩ giả, bất vũ”
(Lấy đức báo oán….Với người tốt, ta lấy điều tốt đáp lại. Với người không tốt, ta vẫn lấy điều tốt đáp lại…Bậc Thượng Sĩ không có tâm địa, hành vi hung bạo).
Trình Y Xuyên (1033-1107), một danh Nho, nhà luân lý đạo đức nổi tiếng đời Tống cũng có câu tương tự:
“Ư ngã thiện giả, ngã diệc thiện chi. Ư ngã ác giả, ngã diệc thiện chi”
(Người tốt với mình, mình tốt lại. Người xấu với mình, mình cũng tốt lại).
Sư Tổ Morihei Uyeshiba của Aikido khẳng định:
“Khi bạn vừa có ý định tấn công là bạn đã thua rồi”.
Hoàng Đế triết gia thời Cổ La Mã Marc Aurel (thế kỷ thứ 2TCN) bảo:
“Cách báo thù hay hơn cả là đừng bao giờ làm giống kẻ thù”.
Lấy hung bạo đối xử lại hung bạo, oán hận sẽ chập trùng bất tận. Lấy ôn hòa đáp lại hung bạo, xung đột, tranh chấp sẽ tận diệt.
Thánh Cam Địa, tức Mahatma Gandhi (1869 – 1948) của Ấn Độ, đã lãnh đạo dân Ấn, dùng phương pháp “Bất Bạo Động” để đối phó lại ách thống trị hung tàn của người Anh. Nghe lời ông, từng dòng người thản nhiên, điềm tĩnh, không một nét căm thù, giao động, sợ hãi, sẵn sàng đứng xếp hàng để vào tù, để lính Anh nạp vào nòng đại bác, trong các buổi hành hình. Đây không còn là cái can trường, anh hùng, can đảm của người tráng sĩ, mà là đức điềm đạm chí cực, là “cái Dũng của Thánh Nhân”, theo cách gọi của học giả Nguyễn Duy Cần, khiến kẻ thù phải lạ lùng, sửng sốt và nhượng bộ.
Nhà hiền triết cổ Hy Lạp Socrate (470-399) đã ung dung bình thản cầm chén thuốc độc uống cạn khi bị bọn đố kỵ vu oan, bức tội.
Chúa Jesus vẫn tuyệt nhiên trầm lặng, bao dung, tha thứ khi bị kẻ ác hành hình.
Nhị tổ Huệ Khả (486-593) vẫn thản nhiên không một lời biện minh, chống đối khi bị xử giảo (chết chém) vì những lời vu cáo của bọn xấu.
Đại sư Hám Sơn (1546-1623) bị vua Minh sai dùng cực hình treo ngược, cắt da xẻo thịt, ép cung để cưỡng bách hoàn tục và lưu đày ở Lĩnh Nam mười mấy năm. Trong những tình huống cực kỳ nghiệt ngã ấy, Đại Sư vẫn nhẫn nhục tột cùng, nhất tâm chánh niệm, tuyệt không vọng ngữ, sân hận…
Lão Đại Sư Hư Vân (1840-1960) trong suốt 101 năm hoằng dương Phật pháp tại Hoa Lục, nhiều lần bị vu cáo, giam cầm, tra tấn, đánh đập tới chết đi sống lại… vẫn một mực bình tâm niệm Phật, không một lời kêu ca oán trách.
Chân Sư Maharishi Ramana (1879-1950), bậc đạt Đạo nổi tiếng từ bi, minh triết, miền nam Ấn Độ, đã cho bọn cướp ăn uống, tuyệt không một khởi tâm thù hận, ngay sau khi chúng lục phá đạo viện và đánh đập ông bầm tím khắp người để khảo của, mà không thấy có tiền bạc, tài sản gì.
....
Với bậc Giác Ngộ, vạn hữu diễn ra như một thế giới hiện tượng, một trường sáng tạo, luân lưu bất tuyệt, nhất kiến, bất khả tái kiến, nhật tân, nhật nhật tân, đổi mới không ngừng, tinh khôi trong từng giây khắc. Cái diễm phúc chan hòa, cái yên vui tràn ngập, có khuynh hướng tự nhiên là chia sẻ, ban phát cho vạn sự, vạn vật: đó là tình thương tự nhiên, vô vụ lợi, vô kỷ, mênh mang, bao la, vô hạn, đó là chính là Tâm Từ Bi, Tâm Vô Ngã, Tâm Đại Bình Đẳng không thân, không sơ, không khinh, không trọng, không bạn, không thù, không hàm ân, không di hận, chỉ chan hòa tới mọi người, muôn vật một tình thương mênh mông, vô hạn, đồng đều, bình đẳng, như nhau.
Krishnamurti bảo:
“Từ bi là hình thức cao nhất của Trí tuệ. Tình thương thì tự nhiên, không động cơ, không mục đích, như một đóa hoa tỏa hương thơm không phải vì người ngửi nó hoặc người quay lưng với nó. Từ bi chỉ xuất hiện khi hoàn toàn vắng mặt Bản Ngã. Khi tâm bạn đầy ắp những ý kiến, so đo, ghen tị, thèm khát, mong muốn chiếm hữu, vươn tới, trở thành… thì làm sao bạn có được tình thương yêu đích thực. Trong khói đen dày đặc không thể xuất hiện ngọn lửa trong sáng, thuần khiết”.
Hạnh Phúc viên mãn
...
Phật bảo: “Cũng như nước biển của tất cả các đại dương có chung một vị mặn, Chánh Đạo ở đâu cũng chỉ toát ra một hương vị, đó là hương vị giải thoát mọi đau khổ, phiền não”.
...
Với bậc Giải Thoát thì ngay cả Niết Bàn, Tịnh Độ cũng chỉ là ảo vọng, hão huyền, hư huyễn thêu dệt, vẽ bày bởi tư tưởng, ý niệm và Phiền Não chính là mầm mống của Bồ Đề, ... Với họ, Chân, Thiện, Mỹ không khác cái đang là, và mục tiêu, lý tưởng, cứu cánh nằm ngay trong những hiện tượng bình thường đang hiện hữu.
...
Tâm Giải Thoát không hoài niệm, không ước mong, không trở thành, không vươn tới, nên tự do, tự tại, vô tha, vô ngã, trọn vẹn, viên mãn, vĩnh cửu trong cái Như Thực, cái Đương Xứ, cái Hiện Tiền.
Khi vua Lý Thái Tông (thế kỷ 11) hỏi ngài ở núi được bao lâu rồi, Thiền Sư Thiền Lão trả lời:
“Đản tri kim nhật, nguyệt.
Thùy thức cựu xuân, thu”
(Chỉ biết ngày tháng hiện tại. Ai nhớ những năm xưa).
Buông bỏ gánh nặng quá khứ, không truy nhân, không lượng quả, không liên hệ hiện tại với dĩ vãng với tương lai, thoát khỏi ý niệm luân hồi, nhân quả, bậc Đạt Đạo sống tiêu dao, tự tại, viên dung, vô ngại, không vấn đề, không đông, tây, không phàm thánh, không lâu, mau, lớn, nhỏ, viên mãn, trọn vẹn trong hiện hữu, vĩnh cửu nơi đương xứ, nhất niệm là vạn niên, thiên thu trong giây lát, một là tất cả, tất cả là một.
...
Thiền sư Khánh Hỷ bảo:
“Càn khôn tận thị mao đầu thượng.
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.
Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ.
Thùy tri phàm, thánh dữ tây, đông”.
(Cả trời, đất nằm trên đầu ngọn cỏ.
Mặt trời, mặt trăng ở trong một hạt cải.
Đại dụng hiện tiền nơi bàn tay.
Ai biết đâu phàm thánh với đông tây).
Giống y lời kệ của sư Khánh Hỷ, nhà thơ huyền bí người Anh William Blake cũng có những vần thơ thấm nhuần nhãn quan tiêu dao, thoát tục :
“Thấy cả Thế giới trong một hạt cát,
Và Thiên đường trong một bông hoa dại.
Nắm cái Vô hạn trong lòng bàn tay,
Và cái Thiên thu trong một giờ khắc”.
(To see a World in a grain of sand,
And a Heaven in a wild flower.
Hold Infinity in the palm of your hand,
And Internity in an hour).
Trong cảnh giới Giải Thoát, khái niệm về không gian, thời gian của cái ta quen thuộc, nông cạn, nhỏ bé, bưng bít, tách biệt, hoàn toàn vong bặt.
J.Krishnamurti bảo:
“Cái tuyệt mỹ của thiền tâm là ở chỗ bạn không hề biết bạn đang ở đâu, bạn đang đi về đâu, cái chung cuộc ra sao”
(The beauty of meditative mind is that you never know where you are, where you are going, what the end is).
Theo ông, một cái tâm tự do, tịch lặng, sáng suốt không còn tìm cầu gì cả:
“Tìm cầu những chứng nghiệm bao la hơn, thâm thúy hơn, siêu việt hơn là một hình thức trốn chạy cái thực tại đang là. Một cái tâm thức tỉnh, sáng suốt, tự do tại sao lại cần sự chứng nghiệm, tại sao lại phải có sự chứng nghiệm? Ánh sáng là ánh sáng, ánh sáng không cần thêm ánh sáng”
(To seek for wider, deeper, transcendental experiences is a form of escape from actual reality of what is. A mind that is awake, intelligent, free, why should it need, why should it have, any experience at all? Light is light, it does not ask for more light).
Ông lại bảo: “Cuộc sống như vậy vì nó như vậy. Mục đích cuộc sống nằm ngay trong những cái nó đang là. Một người sống trọn vẹn cho cuộc sống, không bao giờ hỏi mục đích cuộc sống là gì? Tại sao lại phải đặt mục đích cho nó? Rõ ràng mục đích được nêu ra chỉ là phóng hiện của tư tưởng... Giữa một người ngày đêm chăm chăm lo tu dưỡng để đạt cứu cánh Giải Thoát, Giác Ngộ và một người bôn ba mưu cầu danh lợi, sự cuồng vọng đều như nhau”.
Cầu mong dù thô đại, dung phàm, thông tục hay thanh cao, vi tế, thánh thiện nào cũng đều là những tham vọng vị kỷ. Tâm Giải Thoát thì tuyệt đối vô cầu.
Tổ Nam Tuyền (749 – 835) bảo:
“Bình thường tâm thị Đạo”
(Cái tâm bình thường, tự nhiên, hàng ngày chính là Đạo đó).
Khi vua Lý Thái Tông hỏi về sinh hoạt thường ngày của ngài ở trên núi, Thiền sư Thiền Lão bảo:
“Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh.
Bạch vân, minh nguyệt lộ toàn chân”
(Trúc biếc, hoa vàng không cảnh khác.
Trăng thanh, mây trắng hiện toàn chân).
Với tâm Giải Thoát, hạnh phúc vẹn toàn không phải tìm kiếm, săn lùng ở đâu xa, không phải ở cõi Thiên Đường, Tịnh Độ, Cực Lạc nào, không phải bằng những pháp môn tu luyện khổ hạnh, huyền bí nào, cũng không phải bằng cách tích lũy của cải, danh vọng, tình yêu, kiến thức, hay truy tìm những cảm giác khoái lạc, mới lạ trong những trò giải trí lãng phí, cầu kỳ... mà cái tuyệt mỹ, tuyệt thế, tuyệt trần, phi phàm, tuyệt diệu, thanh bình, phúc lạc... nằm ngay trong những sự vật giản dị, bình thường, đang hiện bày trước mắt ta như trúc biếc, hoa vàng, trăng thanh, gió mát, hoặc trong những cảm nhận, đáp ứng tự nhiên của tâm thân ta với vạn hữu, hay trong những sinh hoạt bình thường đang diễn ra hàng ngày như ăn uống, làm lụng, ngủ nghỉ...
...
Theo J.Krishnamurti, tâm thức chúng ta luôn ở trạng thái giao động, xung đột, bất ổn, phung phí năng lực như một cỗ máy tồi, luôn ma xát, va đập, phát ra những tiếng kêu ken két, trong khi tâm tự do, giải thoát hoàn toàn an nhiên, tịch lặng như một loại máy tuyệt hảo, vận hành hết sức trơn tru, êm ái, tịnh không một tiếng ồn.
...
Nam Hoa Kinh kể về chuyện nhà chiêm tinh nước Trịnh tên Quý Hàm có tài căn cứ vào tâm tư, dung mạo mỗi người, đoán định vô cùng chính xác về vận mệnh con người. Nhưng nhà chiêm tinh tài ba này hoàn toàn không thể biết gì, nói gì khi bậc Đạt Đạo là Hồ Tử, thầy của Liệt Tử, thể hiện tâm thái Hư Không, hoàn toàn vắng lặng. Thiền Tông Trung Hoa cũng đề cập giai thoại một thuật sĩ người Thiên Trúc có tài tha tâm thông, biết rõ tâm tư mọi người, nhưng không thể hình dung, đoán định được tâm trạng của vị Thiền Sư Quốc Sư khi vị này thể hiện tâm thái tuyệt đối vô niệm.
Tâm Đại Định, Tâm Giải Thoát, Tâm Không là tâm vô niệm tuyệt đối, vong bặt mọi vọng tưởng, kể cả những giao động vi tế nhất. Kỹ thuật điện não đồ, máy nói sự thật, các thuật sĩ tha tâm thông, các nhà tiên tri, chiêm tinh, tướng số tài ba nhất … đều bất lực, không thể thăm dò, lãnh hội, thấu đạt được thứ tâm thức vắng lặng cùng cực này.
Đạo Đức Kinh bảo:
“Cổ chi thiện vi Sĩ giả…
Đôn hề kỳ nhược phác.
Khoáng hề kỳ nhược cốc”
(Bậc Đạt Đạo xưa kia… mộc mạc như gỗ cây chưa đẽo gọt, rỗng rang như hang núi).
Nội tâm bậc Giác Ngộ thênh thang, trống vắng, thông suốt rỗng rang… như hang sâu thâm diệu, nhưng cốt cách phong thái bên ngoài của họ lại hồn nhiên, chân chất, giản dị, đơn sơ, mộc mạc… như gỗ cây chưa đẽo gọt.
Tề Vật luận và Tiêu Dao Du trong Trang Tử Nam Hoa Kinh là hai thiên xiển minh tâm thái bình đẳng, tự do tuyệt đối của bậc Chân nhân đạt Đạo. Tâm Giải Thoát không nghiêng lệch, thiên chấp, tự nhiên, như nhiên, tự do, tiêu dao, ung dung, tự tại trong cái hiện tiền, cái như thực, cái đang hiện hữu, thản nhiên, vô vi, không can thiệp vào sự đắp đổi, tương tiếp, tương thừa, tương tác, tương thành giữa hai mặt đối đãi Âm Dương của Thực Tại như doanh hư, tiêu trưởng, thịnh suy, bĩ thái, tồn vong, thành hoại, tử sinh, đắc thất...vì “Thuận Thiên giả tồn” (thuận theo quy luật của Tự Nhiên thì tồn tại) và Tự Nhiên là luật tắc vĩnh cửu của muôn đời.
Phong thái tiêu dao, tự tại của bậc Đạt Đạo được Trang Tử mô tả trong Nam Hoa Kinh, thiên Tiêu Dao Du:
“Phù thừa thiên địa chi chánh, nhi ngự lục khí chi biến, dĩ du vô cùng giả…. Cố viết: chí nhân vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhân vô danh”
(Thuận theo cái chánh của trời đất, nương theo cái biến của lục khí, mà dong chơi trong cõi vô cùng… Bởi vậy mới nói: bậc chí nhân không vì mình, bậc thần nhân không cậy công, bậc thánh nhân không cầu danh).
Tâm giải thoát là tâm tiêu dao, tự do, hồn nhiên, hòa nhập vào cái sống chung vô cùng, vô tận của Vạn hữu, đang luân lưu, biến dịch….Bậc Giải Thoát là người vong bặt cái Ta ý niệm, cái Tôi vị kỷ, tuyệt không còn những kiến chấp vị ngã như công lao tôi, danh vị tôi, vượt thoát những ham muốn vị kỷ, hiếu danh, hiếu lợi. Tâm họ hoàn toàn vắng bóng Bản Ngã. Lời nói, thái độ, hành động giúp người, giúp đời của họ thì vô vi, vô cầu, vô tác ý, vô vụ lợi, không dụng tâm, không chủ ý, không nỗ lực, không cân nhắc, so đo, lựa chọn, hoàn toàn tự nhiên như trăng lên, hoa nở không có mục đích cho ai, vì ai….
Phong thái bậc Chân Nhân còn được Trang Tử minh họa cụ thể hơn trong thiên Đại Tông Sư, Nam Hoa Kinh:
(Bậc Chân Nhân xưa kia không chống né cô đơn, không khao khát trở thành, không ham chuộng danh vị. Như vậy, mất không tiếc, được không mừng…. Ngủ không mộng mị, thức không lo âu, ăn không cầu ngon, thở thì sâu dài…. Không mê sống, không ghét chết, vào không háo hức, ra không ngại ngùng, thản nhiên mà đi, thản nhiên mà đến….Thấy như không đủ mà không nhận thêm, thấy như chuẩn mực mà không gượng ép, thấy như rỗng rang mà không phù phiếm….).
Bậc Đắc Đạo thản nhiên trước vấn đề sống, chết, coi sinh, tử bình đẳng như nhau, hai mặt đối đãi, không thể thiếu nhau, tách rời nhau mà tương tiếp, tương thừa nhau, luân phiên nhau như hoa nở, hoa tàn theo tiết điệu khứ, lai của mùa Xuân trong dòng sống luân lưu, bất tuyệt.
Ngay trước thời điểm an nhiên thị tịch, Thiền sư Mãn Giác (1052-1096), thời Lý, đã ung dung đọc kệ:
“Xuân khứ, bách hoa lạc,
Xuân đáo, bách hoa khai…
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền, tạc dạ, nhất chi mai”.
(Xuân đi, trăm hoa rụng,
Xuân đến,trăm hoa cười….
Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, trước cửa, một cành mai).
Dưới nhãn quan đạt Đạo, trăm hoa không héo tàn vĩnh viễn mà héo tàn đề rồi nở rộ : chết không phải là sự hủy diệt mãi mãi, mà là cái khởi đầu của một chu kỳ tồn tại lai sinh, thanh tân, kế tục.
Đạo Sư Tây Tạng lừng danh Milarepa (1055 – 1135) đã xác quyết, khẳng định:
“Biết sống trọn vẹn cho hiện tại, không hoài niệm quá khứ, không ước vọng tương lai, khi chết sẽ được trọn vẹn. Như vậy, chết sẽ là giây phút an lạc, đẹp đẽ tuyệt trần, như vầng trăng vằng vặc trên đỉnh Tuyết Sơn. Sinh tự do thì Tử tự tại”.
Đạo Giai (1043-1118), một Thiền sư đạo hạnh nổi tiếng thời Tống cũng có cùng một ý nghĩ ấy. Ngay trước giây phút viên tịch, nhắm mắt lìa đời, ông vẫn ung dung nhắc nhở mọi người:
“Sinh bất ái Thiên Đường.
Tử bất phạ Địa Ngục”
(Sống chẳng khao khát Thiên Đường. Chết không kinh hoàng Địa Ngục).
Đây là câu ông nói lên sự thật nội tâm của một hành giả đạt Đạo. Khi sống, Tâm ta thanh bình, tự tại, không xôn xao, loạn động, không bôn ba theo những tham vọng đảo điên do thất tình, lục dục vẽ bày, khêu gợi… thì khoảnh khắc từ trần, với ta là một biến cố bình an, vắng lặng, sáng suốt, yên vui, phúc lạc vô vàn… Thiên Đường hay Địa Ngục đều là những khái niệm do tư tưởng con người ngụy tạo ra. Tâm Đạo là Tâm Không, Tâm vô niệm tuyệt đối, nơi đây không có ý niệm về Thiên Đường để cầu mong, đuổi bắt, cũng không có vọng tưởng về Địa Ngục để sợ hãi, chạy trốn. Tâm bậc đạt Đạo siêu thoát, tự do, tự tại, tuyệt nhiên không bị ràng buộc vào bất cứ khuôn mẫu ý niệm nào về sự Chết. Với họ, Chết là giây phút chứng nghiệm mới lạ diệu kỳ, an vui cùng cực, thênh thang, tự do, tự tại vô biên, vô hạn.
Cũng vào thời điểm ngay trước giây phút an nhiên thị tịch, Giác Hải, một Thiền sư nổi tiếng về thần thông, đời Lý Nhân Tông (1072-1127), đã ung dung đọc kệ:
“Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ.
Hoa điệp bản lai do thị huyễn,
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì”.
(Xuân về, hoa bướm gặp nhau đây,
Hoa bướm cùng nhau hẹn đúng ngày.
Hoa bướm trước nay đều huyễn ảo,
Bướm hoa đừng để bận tâm này).
Mỗi độ xuân về, hoa và bướm lại tiếp cận nhau.
Hoa, bướm gặp lại nhau trong định kỳ hội ngộ tự nhiên.
Hình ảnh hoa và bướm vốn là những cái hư huyễn.
Đừng để tâm vướng mắc vào hình ảnh hoa, bướm.
Với bậc Đạt Đạo, chu kỳ Sinh Tử của kiếp nhân sinh chẳng khác gì chu kỳ hội ngộ của hoa và bướm. Đấy là cái chu kỳ tự nhiên của Trời Đất khi nhân duyên hội đủ. Tâm bậc Đạt Đạo hoàn toàn vong bặt những băn khoăn, thắc mắc về vấn đề Sống, Chết. Với họ, giây phút lâm chung, thời điểm tương giao giữa cái Sống và cái Chết, thì tự nhiên, tự tại, thanh thản, an vui, đẹp đẽ tuyệt trần như tình huống hoa và bướm gặp lại nhau mỗi độ Xuân về.
Tác phong của bậc Đạt Đạo tiêu dao, tự tại, vô tâm, vô dụng ý như mây bay, nước chảy trong thế giới tự nhiên:
“Nước tuôn xuống núi nào do ý.
Mây bay về động vốn không tâm”.
Trích: Đạo học - Con đường an vui hạnh phúc
...
Phật bảo: “Cũng như nước biển của tất cả các đại dương có chung một vị mặn, Chánh Đạo ở đâu cũng chỉ toát ra một hương vị, đó là hương vị giải thoát mọi đau khổ, phiền não”.
...
Với bậc Giải Thoát thì ngay cả Niết Bàn, Tịnh Độ cũng chỉ là ảo vọng, hão huyền, hư huyễn thêu dệt, vẽ bày bởi tư tưởng, ý niệm và Phiền Não chính là mầm mống của Bồ Đề, ... Với họ, Chân, Thiện, Mỹ không khác cái đang là, và mục tiêu, lý tưởng, cứu cánh nằm ngay trong những hiện tượng bình thường đang hiện hữu.
...
Tâm Giải Thoát không hoài niệm, không ước mong, không trở thành, không vươn tới, nên tự do, tự tại, vô tha, vô ngã, trọn vẹn, viên mãn, vĩnh cửu trong cái Như Thực, cái Đương Xứ, cái Hiện Tiền.
Khi vua Lý Thái Tông (thế kỷ 11) hỏi ngài ở núi được bao lâu rồi, Thiền Sư Thiền Lão trả lời:
“Đản tri kim nhật, nguyệt.
Thùy thức cựu xuân, thu”
(Chỉ biết ngày tháng hiện tại. Ai nhớ những năm xưa).
Buông bỏ gánh nặng quá khứ, không truy nhân, không lượng quả, không liên hệ hiện tại với dĩ vãng với tương lai, thoát khỏi ý niệm luân hồi, nhân quả, bậc Đạt Đạo sống tiêu dao, tự tại, viên dung, vô ngại, không vấn đề, không đông, tây, không phàm thánh, không lâu, mau, lớn, nhỏ, viên mãn, trọn vẹn trong hiện hữu, vĩnh cửu nơi đương xứ, nhất niệm là vạn niên, thiên thu trong giây lát, một là tất cả, tất cả là một.
...
Thiền sư Khánh Hỷ bảo:
“Càn khôn tận thị mao đầu thượng.
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.
Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ.
Thùy tri phàm, thánh dữ tây, đông”.
(Cả trời, đất nằm trên đầu ngọn cỏ.
Mặt trời, mặt trăng ở trong một hạt cải.
Đại dụng hiện tiền nơi bàn tay.
Ai biết đâu phàm thánh với đông tây).
Giống y lời kệ của sư Khánh Hỷ, nhà thơ huyền bí người Anh William Blake cũng có những vần thơ thấm nhuần nhãn quan tiêu dao, thoát tục :
“Thấy cả Thế giới trong một hạt cát,
Và Thiên đường trong một bông hoa dại.
Nắm cái Vô hạn trong lòng bàn tay,
Và cái Thiên thu trong một giờ khắc”.
(To see a World in a grain of sand,
And a Heaven in a wild flower.
Hold Infinity in the palm of your hand,
And Internity in an hour).
Trong cảnh giới Giải Thoát, khái niệm về không gian, thời gian của cái ta quen thuộc, nông cạn, nhỏ bé, bưng bít, tách biệt, hoàn toàn vong bặt.
J.Krishnamurti bảo:
“Cái tuyệt mỹ của thiền tâm là ở chỗ bạn không hề biết bạn đang ở đâu, bạn đang đi về đâu, cái chung cuộc ra sao”
(The beauty of meditative mind is that you never know where you are, where you are going, what the end is).
Theo ông, một cái tâm tự do, tịch lặng, sáng suốt không còn tìm cầu gì cả:
“Tìm cầu những chứng nghiệm bao la hơn, thâm thúy hơn, siêu việt hơn là một hình thức trốn chạy cái thực tại đang là. Một cái tâm thức tỉnh, sáng suốt, tự do tại sao lại cần sự chứng nghiệm, tại sao lại phải có sự chứng nghiệm? Ánh sáng là ánh sáng, ánh sáng không cần thêm ánh sáng”
(To seek for wider, deeper, transcendental experiences is a form of escape from actual reality of what is. A mind that is awake, intelligent, free, why should it need, why should it have, any experience at all? Light is light, it does not ask for more light).
Ông lại bảo: “Cuộc sống như vậy vì nó như vậy. Mục đích cuộc sống nằm ngay trong những cái nó đang là. Một người sống trọn vẹn cho cuộc sống, không bao giờ hỏi mục đích cuộc sống là gì? Tại sao lại phải đặt mục đích cho nó? Rõ ràng mục đích được nêu ra chỉ là phóng hiện của tư tưởng... Giữa một người ngày đêm chăm chăm lo tu dưỡng để đạt cứu cánh Giải Thoát, Giác Ngộ và một người bôn ba mưu cầu danh lợi, sự cuồng vọng đều như nhau”.
Cầu mong dù thô đại, dung phàm, thông tục hay thanh cao, vi tế, thánh thiện nào cũng đều là những tham vọng vị kỷ. Tâm Giải Thoát thì tuyệt đối vô cầu.
Tổ Nam Tuyền (749 – 835) bảo:
“Bình thường tâm thị Đạo”
(Cái tâm bình thường, tự nhiên, hàng ngày chính là Đạo đó).
Khi vua Lý Thái Tông hỏi về sinh hoạt thường ngày của ngài ở trên núi, Thiền sư Thiền Lão bảo:
“Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh.
Bạch vân, minh nguyệt lộ toàn chân”
(Trúc biếc, hoa vàng không cảnh khác.
Trăng thanh, mây trắng hiện toàn chân).
Với tâm Giải Thoát, hạnh phúc vẹn toàn không phải tìm kiếm, săn lùng ở đâu xa, không phải ở cõi Thiên Đường, Tịnh Độ, Cực Lạc nào, không phải bằng những pháp môn tu luyện khổ hạnh, huyền bí nào, cũng không phải bằng cách tích lũy của cải, danh vọng, tình yêu, kiến thức, hay truy tìm những cảm giác khoái lạc, mới lạ trong những trò giải trí lãng phí, cầu kỳ... mà cái tuyệt mỹ, tuyệt thế, tuyệt trần, phi phàm, tuyệt diệu, thanh bình, phúc lạc... nằm ngay trong những sự vật giản dị, bình thường, đang hiện bày trước mắt ta như trúc biếc, hoa vàng, trăng thanh, gió mát, hoặc trong những cảm nhận, đáp ứng tự nhiên của tâm thân ta với vạn hữu, hay trong những sinh hoạt bình thường đang diễn ra hàng ngày như ăn uống, làm lụng, ngủ nghỉ...
...
Theo J.Krishnamurti, tâm thức chúng ta luôn ở trạng thái giao động, xung đột, bất ổn, phung phí năng lực như một cỗ máy tồi, luôn ma xát, va đập, phát ra những tiếng kêu ken két, trong khi tâm tự do, giải thoát hoàn toàn an nhiên, tịch lặng như một loại máy tuyệt hảo, vận hành hết sức trơn tru, êm ái, tịnh không một tiếng ồn.
...
Nam Hoa Kinh kể về chuyện nhà chiêm tinh nước Trịnh tên Quý Hàm có tài căn cứ vào tâm tư, dung mạo mỗi người, đoán định vô cùng chính xác về vận mệnh con người. Nhưng nhà chiêm tinh tài ba này hoàn toàn không thể biết gì, nói gì khi bậc Đạt Đạo là Hồ Tử, thầy của Liệt Tử, thể hiện tâm thái Hư Không, hoàn toàn vắng lặng. Thiền Tông Trung Hoa cũng đề cập giai thoại một thuật sĩ người Thiên Trúc có tài tha tâm thông, biết rõ tâm tư mọi người, nhưng không thể hình dung, đoán định được tâm trạng của vị Thiền Sư Quốc Sư khi vị này thể hiện tâm thái tuyệt đối vô niệm.
Tâm Đại Định, Tâm Giải Thoát, Tâm Không là tâm vô niệm tuyệt đối, vong bặt mọi vọng tưởng, kể cả những giao động vi tế nhất. Kỹ thuật điện não đồ, máy nói sự thật, các thuật sĩ tha tâm thông, các nhà tiên tri, chiêm tinh, tướng số tài ba nhất … đều bất lực, không thể thăm dò, lãnh hội, thấu đạt được thứ tâm thức vắng lặng cùng cực này.
Đạo Đức Kinh bảo:
“Cổ chi thiện vi Sĩ giả…
Đôn hề kỳ nhược phác.
Khoáng hề kỳ nhược cốc”
(Bậc Đạt Đạo xưa kia… mộc mạc như gỗ cây chưa đẽo gọt, rỗng rang như hang núi).
Nội tâm bậc Giác Ngộ thênh thang, trống vắng, thông suốt rỗng rang… như hang sâu thâm diệu, nhưng cốt cách phong thái bên ngoài của họ lại hồn nhiên, chân chất, giản dị, đơn sơ, mộc mạc… như gỗ cây chưa đẽo gọt.
Tề Vật luận và Tiêu Dao Du trong Trang Tử Nam Hoa Kinh là hai thiên xiển minh tâm thái bình đẳng, tự do tuyệt đối của bậc Chân nhân đạt Đạo. Tâm Giải Thoát không nghiêng lệch, thiên chấp, tự nhiên, như nhiên, tự do, tiêu dao, ung dung, tự tại trong cái hiện tiền, cái như thực, cái đang hiện hữu, thản nhiên, vô vi, không can thiệp vào sự đắp đổi, tương tiếp, tương thừa, tương tác, tương thành giữa hai mặt đối đãi Âm Dương của Thực Tại như doanh hư, tiêu trưởng, thịnh suy, bĩ thái, tồn vong, thành hoại, tử sinh, đắc thất...vì “Thuận Thiên giả tồn” (thuận theo quy luật của Tự Nhiên thì tồn tại) và Tự Nhiên là luật tắc vĩnh cửu của muôn đời.
Phong thái tiêu dao, tự tại của bậc Đạt Đạo được Trang Tử mô tả trong Nam Hoa Kinh, thiên Tiêu Dao Du:
“Phù thừa thiên địa chi chánh, nhi ngự lục khí chi biến, dĩ du vô cùng giả…. Cố viết: chí nhân vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhân vô danh”
(Thuận theo cái chánh của trời đất, nương theo cái biến của lục khí, mà dong chơi trong cõi vô cùng… Bởi vậy mới nói: bậc chí nhân không vì mình, bậc thần nhân không cậy công, bậc thánh nhân không cầu danh).
Tâm giải thoát là tâm tiêu dao, tự do, hồn nhiên, hòa nhập vào cái sống chung vô cùng, vô tận của Vạn hữu, đang luân lưu, biến dịch….Bậc Giải Thoát là người vong bặt cái Ta ý niệm, cái Tôi vị kỷ, tuyệt không còn những kiến chấp vị ngã như công lao tôi, danh vị tôi, vượt thoát những ham muốn vị kỷ, hiếu danh, hiếu lợi. Tâm họ hoàn toàn vắng bóng Bản Ngã. Lời nói, thái độ, hành động giúp người, giúp đời của họ thì vô vi, vô cầu, vô tác ý, vô vụ lợi, không dụng tâm, không chủ ý, không nỗ lực, không cân nhắc, so đo, lựa chọn, hoàn toàn tự nhiên như trăng lên, hoa nở không có mục đích cho ai, vì ai….
Phong thái bậc Chân Nhân còn được Trang Tử minh họa cụ thể hơn trong thiên Đại Tông Sư, Nam Hoa Kinh:
(Bậc Chân Nhân xưa kia không chống né cô đơn, không khao khát trở thành, không ham chuộng danh vị. Như vậy, mất không tiếc, được không mừng…. Ngủ không mộng mị, thức không lo âu, ăn không cầu ngon, thở thì sâu dài…. Không mê sống, không ghét chết, vào không háo hức, ra không ngại ngùng, thản nhiên mà đi, thản nhiên mà đến….Thấy như không đủ mà không nhận thêm, thấy như chuẩn mực mà không gượng ép, thấy như rỗng rang mà không phù phiếm….).
Bậc Đắc Đạo thản nhiên trước vấn đề sống, chết, coi sinh, tử bình đẳng như nhau, hai mặt đối đãi, không thể thiếu nhau, tách rời nhau mà tương tiếp, tương thừa nhau, luân phiên nhau như hoa nở, hoa tàn theo tiết điệu khứ, lai của mùa Xuân trong dòng sống luân lưu, bất tuyệt.
Ngay trước thời điểm an nhiên thị tịch, Thiền sư Mãn Giác (1052-1096), thời Lý, đã ung dung đọc kệ:
“Xuân khứ, bách hoa lạc,
Xuân đáo, bách hoa khai…
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền, tạc dạ, nhất chi mai”.
(Xuân đi, trăm hoa rụng,
Xuân đến,trăm hoa cười….
Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, trước cửa, một cành mai).
Dưới nhãn quan đạt Đạo, trăm hoa không héo tàn vĩnh viễn mà héo tàn đề rồi nở rộ : chết không phải là sự hủy diệt mãi mãi, mà là cái khởi đầu của một chu kỳ tồn tại lai sinh, thanh tân, kế tục.
Đạo Sư Tây Tạng lừng danh Milarepa (1055 – 1135) đã xác quyết, khẳng định:
“Biết sống trọn vẹn cho hiện tại, không hoài niệm quá khứ, không ước vọng tương lai, khi chết sẽ được trọn vẹn. Như vậy, chết sẽ là giây phút an lạc, đẹp đẽ tuyệt trần, như vầng trăng vằng vặc trên đỉnh Tuyết Sơn. Sinh tự do thì Tử tự tại”.
Đạo Giai (1043-1118), một Thiền sư đạo hạnh nổi tiếng thời Tống cũng có cùng một ý nghĩ ấy. Ngay trước giây phút viên tịch, nhắm mắt lìa đời, ông vẫn ung dung nhắc nhở mọi người:
“Sinh bất ái Thiên Đường.
Tử bất phạ Địa Ngục”
(Sống chẳng khao khát Thiên Đường. Chết không kinh hoàng Địa Ngục).
Đây là câu ông nói lên sự thật nội tâm của một hành giả đạt Đạo. Khi sống, Tâm ta thanh bình, tự tại, không xôn xao, loạn động, không bôn ba theo những tham vọng đảo điên do thất tình, lục dục vẽ bày, khêu gợi… thì khoảnh khắc từ trần, với ta là một biến cố bình an, vắng lặng, sáng suốt, yên vui, phúc lạc vô vàn… Thiên Đường hay Địa Ngục đều là những khái niệm do tư tưởng con người ngụy tạo ra. Tâm Đạo là Tâm Không, Tâm vô niệm tuyệt đối, nơi đây không có ý niệm về Thiên Đường để cầu mong, đuổi bắt, cũng không có vọng tưởng về Địa Ngục để sợ hãi, chạy trốn. Tâm bậc đạt Đạo siêu thoát, tự do, tự tại, tuyệt nhiên không bị ràng buộc vào bất cứ khuôn mẫu ý niệm nào về sự Chết. Với họ, Chết là giây phút chứng nghiệm mới lạ diệu kỳ, an vui cùng cực, thênh thang, tự do, tự tại vô biên, vô hạn.
Cũng vào thời điểm ngay trước giây phút an nhiên thị tịch, Giác Hải, một Thiền sư nổi tiếng về thần thông, đời Lý Nhân Tông (1072-1127), đã ung dung đọc kệ:
“Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ.
Hoa điệp bản lai do thị huyễn,
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì”.
(Xuân về, hoa bướm gặp nhau đây,
Hoa bướm cùng nhau hẹn đúng ngày.
Hoa bướm trước nay đều huyễn ảo,
Bướm hoa đừng để bận tâm này).
Mỗi độ xuân về, hoa và bướm lại tiếp cận nhau.
Hoa, bướm gặp lại nhau trong định kỳ hội ngộ tự nhiên.
Hình ảnh hoa và bướm vốn là những cái hư huyễn.
Đừng để tâm vướng mắc vào hình ảnh hoa, bướm.
Với bậc Đạt Đạo, chu kỳ Sinh Tử của kiếp nhân sinh chẳng khác gì chu kỳ hội ngộ của hoa và bướm. Đấy là cái chu kỳ tự nhiên của Trời Đất khi nhân duyên hội đủ. Tâm bậc Đạt Đạo hoàn toàn vong bặt những băn khoăn, thắc mắc về vấn đề Sống, Chết. Với họ, giây phút lâm chung, thời điểm tương giao giữa cái Sống và cái Chết, thì tự nhiên, tự tại, thanh thản, an vui, đẹp đẽ tuyệt trần như tình huống hoa và bướm gặp lại nhau mỗi độ Xuân về.
Tác phong của bậc Đạt Đạo tiêu dao, tự tại, vô tâm, vô dụng ý như mây bay, nước chảy trong thế giới tự nhiên:
“Nước tuôn xuống núi nào do ý.
Mây bay về động vốn không tâm”.
Trích: Đạo học - Con đường an vui hạnh phúc