Chánh
Định – Tà Định / Chánh Kiến – Tà Kiến
Hỏi: Tà định là khi định có
mục đích bất thiện. Nhưng trong lúc hành thiền không có bất cứ ý niệm bất thiện
nào thì mới vào định được. Chỉ cần có 1 tâm sở bất thiện không thể nào vào định
được. Vậy tà định và chánh định khác nhau chỗ nào?
- Tà định thường được hiểu theo nghĩa có động cơ và
mục đích xấu, nhưng tà định nói chung chỉ có nghĩa là không phải chánh định
thôi. Vì vậy, nên nói “không phải chánh định” chính xác hơn là nói tà định
chung chung.
Ngoại trừ tà định, chánh định trong Phật giáo còn phân biệt phàm định với Thánh định. Phàm định là định tuy tốt nhưng còn hữu vi hữu ngã, do hành giả cố gắng tập trung tâm trên một đề mục, hay trấn áp tâm để đắc các thiền chi. Thông thường định này có mục đích mong cầu đạt được các trạng thái định lý tưởng nào đó, nên chưa hẳn là chánh định (theo Bát Chánh Đạo) mà chỉ đưa đến thiền sắc giới, vô sắc giới, còn nằm trong Tam giới, tức vẫn còn vô minh ái dục, có thể gọi là vô minh ái dục cao cấp, nó còn nguy hiểm hơn vô minh ái dục thô thiển, nên vẫn còn “hữu ý, hữu tướng, hữu tác, hữu cầu”.
Ngoại trừ tà định, chánh định trong Phật giáo còn phân biệt phàm định với Thánh định. Phàm định là định tuy tốt nhưng còn hữu vi hữu ngã, do hành giả cố gắng tập trung tâm trên một đề mục, hay trấn áp tâm để đắc các thiền chi. Thông thường định này có mục đích mong cầu đạt được các trạng thái định lý tưởng nào đó, nên chưa hẳn là chánh định (theo Bát Chánh Đạo) mà chỉ đưa đến thiền sắc giới, vô sắc giới, còn nằm trong Tam giới, tức vẫn còn vô minh ái dục, có thể gọi là vô minh ái dục cao cấp, nó còn nguy hiểm hơn vô minh ái dục thô thiển, nên vẫn còn “hữu ý, hữu tướng, hữu tác, hữu cầu”.
Chánh định là định đúng hướng “không, vô
tướng, vô tác, vô cầu” mà đức Phật dạy, vì vậy chỉ cần thân thư giãn,
tâm buông xả mọi ý đồ trở thành của bản ngã để trả tâm về với bản chất thanh
tịnh vắng lặng tự nhiên của nó, nên gọi là định vô vi vô ngã. Lúc đó tâm tự
thấy đề mục (như sự thở vô thở ra chẳng hạn) hoặc chính tâm thái tịch tịnh là
đề mục. Để tâm tự yên, không cần cố gắng nỗ lực dụng công, chỉ buông ra thì tâm
liền tự lắng dịu và tự đi vào định, cũng không cần phải biết tâm vào loại định
nào, mà để tâm tự định, có thể đi đến định cao nhất, nhưng cũng không cần khởi
khái niệm phân biệt đó là định cao hay thấp. Khi vào định tự nhiên này thì tâm
vừa rỗng lặng vừa trong sáng, nên gọi là định hay tuệ gì cũng được, hoặc có khi
định tuệ nhất như, có khi yếu tố tuệ trội hơn thì sáng suốt thấy rõ Pháp, khi
yếu tố định mạnh hơn thì vào định dễ dàng. Dù thế nào vẫn là vô vi vô ngã.
Trong Bát Chánh Đạo, khi có chánh kiến thì có chánh
tư duy, khi có chánh tư duy thì có chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng nhờ đó
tâm tự động ổn định (chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định). Nên Bát chánh đạo
là một chuỗi liên hoàn không tách rời ra để tu từng phần. Sở dĩ đức Phật dạy
tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác (chánh kiến) trong Kinh Tứ Niệm Xứ, vì đó là 3
yếu tố dẫn đầu trong Bát Chánh Đạo. Khi hành giả sử dụng 3 yếu tố dẫn đạo này
thì những yếu tố khác tự động trở thành chánh, tức là tự động có chánh tư duy,
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng và chánh định một cách hoàn toàn tự nhiên.
Nếu hiểu đúng nguyên lý đức Phật dạy thì việc tu tập trở nên rất dễ dàng, hoàn
toàn tự động, nên mới gọi là “không, vô tướng, vô tác, vô cầu”.
Thời kỳ đầu đức Phật chỉ giảng những nguyên lý tinh
yếu như Tứ Diệu Đế, Vô Ngã Tướng, Pháp duyên khởi, 5 uẩn, 18 giới, Bát chánh
đạo… để người nghe thấy ra sự vận hành tương giao hoặc mối quan hệ của
thân-tâm-cảnh mà không bị lầm lạc trong đó. Trong Kinh Đoạn Giảm, đức Phật nói
rất rõ: Một người đắc sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền cho đến phi
tưởng phi phi tưởng xứ, đó không phải là hạnh đoạn giảm, đối với các bậc Thánh
đó chỉ là hiện tại lạc trú thôi. Còn hạnh đoạn giảm là hạnh đối trị những sai
lầm, bất thiện đưa đến phiền não khổ đau, nhờ thấy Pháp mà tuỳ duyên chuyển hoá
một cách tự nhiên và tương đối, chứ không xem thiền định là mục đích tuyệt đối
để mong cầu mà các đạo khác thường cố gắng đạt được như mục đích cuối cùng. Nói
tà định là ý như vậy. Cũng như 62 tà kiến, thực ra mỗi kiến đều có chỗ đúng
nhưng sở dĩ trở thành tà kiến là do chấp một chiều: “chỉ như vậy mới
đúng”.
Thí dụ pháp vẫn có thường, có đoạn nhưng chỉ chấp
thường thôi hoặc chấp đoạn thôi, hoặc chấp vừa thường vừa đoạn… đều là sai. Với
tà kiến hữu biên, vô biên cũng vậy v.v... Sai ở chỗ chấp một chiều như người
không thấy mà sờ voi. Sờ cái tai mà cho đó là con voi thì sai, nhưng là cái tai
voi thì vẫn đúng. Sờ cái chân voi giống cây cột thì đúng, còn nói con voi giống
cây cột mới là sai. Nhiều người đọc kinh nghe Phật nói 62 tà kiến thì tưởng
những kiến ấy là sai lầm, nhưng thực ra chúng cũng đúng nhưng đúng cục bộ,
phiến diện, một chiều thôi mà tưởng là toàn diện nên mới gọi là tà kiến. Nếu
người thấy được sự tổng hợp toàn diện 62 kiến đó đúng với vị trí của mỗi phương
diện thì lại là người có chánh kiến.
Cũng vậy, tà định có khi không hoàn toàn là xấu,
nhưng sở dĩ gọi là tà vì không đúng hướng chánh đạo: viễn ly, ly tham,
đoạn diệt, an tịnh, chánh trí, giác ngộ, Niết-bàn, mà chỉ hướng đến đạt sở đắc
này, sở đắc kia làm cho bản ngã ngày càng tăng trưởng... nên mới gọi là tà
định.
Thiền để
đắc định hay giác ngộ?
Hỏi: Mục đích ngồi thiền là
phải đạt được các tầng thiền từ sơ thiền đến tứ thiền. Vậy sai chỗ nào? Có mục
đích rõ ràng mới thiền được.
- Tại sao chỉ hướng đến mục đích đạt được các tầng
định, trong khi có thể hướng đến tuệ tri Bốn Sự Thật? Thí dụ Ngài Xá Lợi Phất
hướng dẫn tâm một người sắp lâm chung khiến sau khi chết người ấy sinh lên cõi
Trời, nhưng bị Đức Phật quở trách, lẽ ra không nên hướng tâm người ấy đến cõi
Trời mà có thể hướng tâm ông ta đến chứng ngộ đạo quả Tu-đà-hoàn. Mục đích các
tầng định chỉ là hiện tại lạc trú và thần thông chứ không hướng đến giác ngộ
giải thoát, nên vẫn còn là những kiết sử sắc ái, vô sắc ái. Phật tuỳ căn cơ
người tâm vọng động bất an mà khuyên họ thiền định cho được an lạc thôi. Với
người khác như Bāhiya, Vakkāli Phật không dạy thiền định, mà dạy thấy biết như
thực hoặc chỉ cho thấy ngũ uẩn là vô thường, khổ, vô ngã… thì liền giác ngộ
giải thoát.
Vì tâm loạn nên mới thích định, nhưng cố trấn
áp khối tham sân si quá nặng nên kết quả của sự dồn nén chỉ là… tẩu hỏa nhập
ma. Còn nếu đạt được định thì cũng chỉ là lấy đá đè cỏ nhưng lại dễ bành
trướng đại ngã, chứ không thể giác ngộ giải thoát được. Tất cả phương pháp
thiền định là do các vị thiền sư sau này tự đặt ra dựa theo Chú Giải. Thí dụ
cách đếm hơi thở không có trong Chánh Tạng mà do người sau mô phỏng theo cách
tu thiền định của Bà-la-môn để chế định ra. Nếu biết cách thì định phát huy
trong khi đi đứng ngồi nằm và tất cả mọi hoạt động đều được cả, nghĩa là chỉ cần
thận trọng (giới), chú tâm (định), quan sát (tuệ) một cách tự nhiên trong mọi
lúc mọi nơi thì định ngày càng kiên cố. Nên nếu hành như vậy một thời gian thì
tự động ngồi đâu định cũng tự đến một cách dễ dàng.
Cách dạy của đức Phật ngược
với cách dạy của thế gian là Ngài dạy từ cao xuống thấp dần, chứ không từ thấp
lên cao. Tức Ngài dạy những nguyên lý thực tánh rốt ráo như Tứ Diệu Đế, Vô Ngã…
trước rồi mới nói dần các pháp môn tuỳ theo trình độ thấp dần. Ví dụ lúc đầu
dạy trình độ tiến sĩ trước, ai không hiểu thì nói xuống phó tiến sĩ, không hiểu
nữa thì nói xuống cao học, rồi xuống cử nhân, xuống lớp 12 v.v… như vậy mới
không mất thời gian của vị căn cơ đã chín mùi.
Trong Bát chánh đạo, 8 yếu tố
đi chung với nhau, không tách thiền định riêng để tu như đạo Bà-la-môn. Các yếu
tố giới định tuệ luôn hợp nhất trong Bát Chánh Đạo, nên khi đã thấy rõ các yếu
tố then chốt này thì có thể tuỳ lúc cần thiết mà gia giảm từng yếu tố cho phù
hợp với hoàn cảnh, đó chính là biết điều chỉnh nhận thức và hành vi. Vì về sau
các Tông phái tách rời các yếu tố trong Bát Chánh Đạo ra để tu riêng nên mới
gọi là thời Mạt Pháp. Mạt là tách ra từng nhánh ngọn riêng, từng chi Pháp riêng
mà hành, như niệm Phật thì niệm Phật không thôi, thiền định thì thiền định
không thôi…với mục đích sở đắc lý tưởng của mình mà trở thành hữu vi hữu ngã.
Chánh định là trạng thái vô vi
vô ngã do thân tâm hoàn toàn thư giãn, buông xả, cảm nhận toàn thân đang thở,
đang đi hoặc đang ngồi… (tuỳ chỗ, tuỳ lúc, tuỳ hiện trạng) một cách tự nhiên,
nên tâm không còn tán loạn, tự trở về với tự tánh rỗng lặng, trong sáng tự
nhiên của nó. Lúc đó, thoát khỏi mọi ý đồ sở đắc nên tâm tự định, tánh biết tự
biết, không có bản ngã tạo tác nào trong đó, vì vậy chánh định được gọi là vô
vi vô ngã. Ngược lại, không phải có mục đích xấu mới gọi là tà định, mà định
tác thành bởi ý đồ của bản ngã, dù có mục đích thiện vẫn là phàm định, còn vô
minh ái dục, chưa phải là chánh định. Trong 4 giai đoạn tiến hóa, giai đoạn
phát huy bản ngã thiền định được xem là phương tiện tối ưu để tiểu ngã trở
thành đại ngã. Trong đạo Phật thì thiền định hữu vi hữu ngã vẫn còn trong Tam
giới nên chưa được gọi là chánh định.
Về sau do một số nhà chú giải
trước kia tinh thông giáo điển Bà-la-môn đã vô tình (hay hữu ý ?!) đưa tư tưởng
và phương pháp hành trì của Bà-la-môn (nhất là thiền định) vào giáo pháp đức
Phật, mà nhiều người do không đủ trình độ thâm nhập trực tiếp lời dạy của đức
Phật nên quá tin vào các chú giải ấy đã hiểu Phật pháp theo Bà-la-môn mà hoàn
toàn không hay biết. Bāhiya nghe Phật dạy không cần qua bất kỳ một chú giải
nào, một luận sư vẫn giác ngộ lập tức.
Chính
mình là cuốn kinh kỳ diệu nhất.
Cuốn kinh cực kỳ quan trọng mà
mỗi người cần phải đọc thật kỹ càng đó là chính mình. Chính mình là cuốn kinh
vi diệu nhất không có kinh nào có thể vi diệu hơn. Bất kỳ kinh điển nào không
nói được sự thật nơi chính mình thì đều không đúng. Toàn bộ những lời Phật dạy
đều chỉ thẳng vào sự thật nơi mỗi người. Hãy đọc cuốn kinh nơi chính mình ! Ai
thấy sự thật ngay nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, nơi tất cả cảm giác cảm xúc,
nơi những phản ứng, những thái độ, những trạng thái nội tâm, nơi sự tương giao
và mối quan hệ với vạn pháp xung quanh… người ấy dễ thông suốt toàn bộ lời dạy
của Phật mà không bị giới hạn bởi ngôn ngữ được thuật lại trong kinh điển.
Như trên tấm bản đồ, người ta
chỉ phác hoạ con đường đi thôi, còn thực tế con đường phong phú hơn nhiều, khác
xa với hình vẽ. Nên khi đi trên con đường đó có thể thấy biết bao cây cối xung
quanh, cây nào đang nở hoa, hoa nào màu đỏ, hoa nào màu xanh, con đường lát đá
gì, rộng bao nhiêu, hai bên đường có bao nhiêu nhà... vô số những điều mà bản
đồ không thể nói hết được. Cũng vậy người nào biết đọc cuốn kinh vi diệu nơi
chính mình để khám phá ra ở đó sự thật vô cùng phong phú, người đó mới có khả
năng xiển dương Phật Pháp nhiệm mầu, vì Phật Pháp không phải là ngôn từ được
tường thuật lại trong kinh điển mà người sau đem ra chú giải thêm thắt theo lý
trí.
Giác ngộ trên Sự Thật, không giác ngộ theo Chú
Giải.
Hỏi: Phần lớn trong Kinh mô tả các tầng thiền xuất hiện quá nhiều.
Nên ai cũng nghĩ muốn tu phải qua tứ thiền, bát định mới được mà đọc Kinh thì
phải đọc chú giải mới hiểu nên chỉ hiểu qua lý trí. Con tâm đác câu nói của
Thầy : "Đọc quyển kinh nơi chính mình là tuyệt vời nhất!" Ngài Ajahn
Chah cũng nói vậy, giảng theo chứng nghiệm thực thì Phật tử thâm nhập đạo nhanh
hơn. Không nên chạy theo ngôn thuyết quá nhiều mà chỉ nên quan sát đời sống
hàng ngày để thấy ra sự thật.
- Đúng vậy ! Khi đặt ra mục
đích lý tưởng là đã đưa khái niệm ra trước, rồi cuối cùng chạy theo phóng ảnh
của khái niệm đó. Khi đạt được mục đích đề ra, tưởng đã đạt được cái thực, thật
ra chỉ đạt được ảo tưởng của chính mình. Như cô gái nọ lấy được người chồng lý
tưởng mà cô hằng mơ ước, nhưng sau một thời gian chung sống mới phát hiện ra đó
chỉ là bánh vẽ của chính mình, còn anh ta vẫn chỉ là anh ta chứ không như mình
mơ mộng.
Trong chúng ta vốn có sẵn tất
cả pháp. Định gì cũng có sẵn trong đó nhưng chúng ta lại cố gắng tu luyện cho
bằng được loại định mà bản ngã mong cầu. Có lúc ngồi lặng lẽ quan sát lại mình
thấy tâm đang đi qua hỷ lạc, có lúc định xả, thậm chí có lúc thấy cả trạng thái
tâm phi tưởng phi tưởng xứ một cách hoàn toàn tự nhiên, không hề mong đợi.
Nhưng khi chúng ta dụng ý, dụng công để cố gắng định tâm thì tâm càng bị dồn
nén, cho dù có đạt được định như ý muốn thì định đó hoàn toàn hữu vi hữu ngã mà
bên trong khối vô minh ái dục bị dồn nén vẫn còn nguyên.
Vì không biết chiêm ngoạn
chính mình nên không biết mọi tâm định - từ cận định cho đến phi tưởng phi phi
tưởng định - đều có sẵn bên trong, nên cứ mãi loay hoay đi tìm kiếm, tu luyện,
nỗ lực dụng công để rồi chỉ đi tìm được ảo tưởng của chính mình mà thôi. Còn
khi buông mọi tìm kiếm, chỉ ngồi với tâm vô sự thôi, bỗng dưng tâm hoàn toàn
lặng lẽ, đúng là đang vào trạng thái từ cạn đến sâu mà hoàn toàn không cần dụng
công dụng ý. Như vậy, chỉ cần lặng lẽ quan sát một cách hồn nhiên chúng ta ai
cũng có thể dạo chơi trong tất cả các tầng thiền đã có sẵn nơi tâm khảm mỗi
người ! Tại vì không chịu quan sát để khám phá ra tâm lúc nào là sơ thiền, lúc
nào là nhị thiền, lúc nào là tam thiền hay tứ thiền và chỉ trải nghiệm và chiêm
ngoạn sự thật thôi chứ không cần sở hữu chúng như cái ‘ta’ thường đòi hỏi.
Chỉ cần ngồi buông xả hoàn
toàn vô sự thôi thì ngay đó liền thấy tâm tứ thiền với định xả như thế nào…,
thấy cả tâm phi tưởng phi phi tưởng xứ như thế nào. Thậm chí đôi khi nhân
duyên đầy đủ còn thấy được cả tâm Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm… và Niết-bàn nữa không
chừng. Tất cả những Pháp này đều có sẵn, tại vô minh ái dục mà không thấy ra
thôi. Chứ không cần phải rèn luyện để trở thành, vì khởi tâm rèn luyện để
trở thành là rơi vào thập nhị nhân duyên sinh, rơi vào Tập đế, Khổ đế rồi. Nếu
thấy tất cả các pháp như nó đang là thì đâu cần luyện tập để trở thành. Chỉ do
người ta không đủ sức đi theo nhất hướng xả ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh nên
không thể nào thấy chánh trí giác ngộ Niết bàn như đức Phật đã dạy.
Phật nói giáo Pháp của
Như Lai là nhất hướng xả ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh thì mới trở về với
chánh trí để giác ngộ Niết bàn. An tịnh này chính là sự an tịnh buông xả mọi ý
đồ của bản ngã nên trong thấy chỉ thấy, trong nghe chỉ nghe, trong biết chỉ
biết, đó chính là chánh trí giác ngộ Niết bàn. Thế mà cứ dựng lên cái bản ngã
để đạt được định này định kia nên ngay đây không thấy đâu là luân hồi sinh tử,
đâu là giải thoát Niết bàn. Niết bàn vẫn luôn ngay đây, không sinh không diệt,
sao lại phải tìm kiếm trong thiền định hữu vi hữu ngã. Tâm tham lam sân hận si
mê thì ngay đó mà thấy chứ không phải cố gắng thiền định để trấn áp. Vì trấn áp
nên tham sân si bị dồn nén vào vô thức, mà không thể nào diệt được.
Nếu không thận trọng chú tâm quan sát, không trở về
trọn vẹn tỉnh thức, không trong lành định tỉnh sáng suốt, không rỗng rang lặng
lẽ trong sáng ngay tại đây và bây giờ thì làm bất cứ điều gì cũng không phải là
chánh đạo, tu kiểu gì, lên núi vào hang đều không phải là chánh đạo. Nhưng khi
đứng đi, khi hoạt động đều biết rõ, không mê, thì khi ngồi, nằm tâm sẽ tự thanh
tịnh, tỉnh thức nên không còn nghĩ ngợi gì nữa. Như nàng Patācārā sau khi mất
hết mọi thứ sở hữu, trở nên điên loạn. Nhưng khi nghe Phật nói một câu kệ không
có gì sở hữu được trên đời thì nàng liền tỉnh ngộ. Sau khi xuất gia hàng ngày
mặc y mang bát đi khất thực trong chánh niệm tỉnh giác. Một hôm, đi khất thực
về, múc nước rửa chân thấy nước chảy xuống thấm vào đất mất hút, với tâm thuần
tịnh trong sáng nàng đã chứng đạo quả A-la-hán. Chứng đạo quả không phải do
thấy nước, mà do tâm hoàn toàn rỗng lặng trong sáng. Lúc đó không kinh điển,
không chú giải, không ngôn từ, không tư tưởng, chỉ một tâm hoàn toàn tịch tịnh
mà thôi.
Biết thực
chất và biết tên gọi.
Hỏi: Các thiền sinh khi trình
thiền, căn cứ trên lời trình thiền thiền sư kết luận đã đắc tam thiền, tứ
thiền, đắc quả này quả kia. Lúc nãy, Thầy có nói đôi khi vào trạng thái
tâm thiền rồi mà mình không biết là thiền gì, nhưng Phật nói ai chứng thì người
đó biết ngay làm con bối rối. Vì đôi lúc con cho rằng mình thấy như vậy nhưng
sợ rằng đó là ảo tưởng thì sao. Làm sao biết tâm mình khi đó ở trạng thái nào?
- Người thường chánh niệm tỉnh giác, trọn vẹn tỉnh
thức, thận trọng chú tâm quan sát thực tại thì đương nhiên biết rõ thân
tâm đang ở trạng thái nào - biết rất rõ thân thọ tâm pháp ra sao - nên nếu tâm
vào định cũng biết trạng thái tâm định như thế nào. Nhưng có hai loại “biết
rõ”: Một là biết rõ trạng thái thực chứng nhưng không biết gọi tên nó là gì.
Còn một loại biết rõ tên từng chi pháp các tầng thiền theo pháp học nhưng không
thực chứng. Như trong thời đức Phật có 2 vị tỳ kheo, một vị giỏi pháp học Phật
hỏi chi Pháp nào cũng nói được, còn vị kia tuy thực chứng nhưng không biết nói
gì cả. Đến khi đức Phật hỏi vào sự thực chứng thì vị ấy diễn tả được rõ ràng
còn vị thứ nhất lại không biết gì cả. Vị thực chứng biết rõ tâm mình nhưng
không biết gọi nó là gì nên không cho mình là đắc thiền thứ mấy, hoặc đạo quả
nào. Ngược lại vị giỏi pháp học có khi tưởng mình đã đắc tam thiền tứ thiền
theo khái niệm học được nhưng trên thực tế đó chỉ là ảo tưởng. Có nhiều thiền
sư cũng ưa tuyên bố vị này đắc thiền này vị kia đắc quả nọ theo kiến thức pháp
học chứ không phải đúng với tri kiến chân thực. Cho dù có đắc tam thiền tứ
thiền mà thấy có “cái tôi đắc” là đã tà thiền rồi. Còn vị thực chứng chỉ thấy
trạng thái tâm như vậy, như vậy… chứ không cần nói cũng không cần biết đó là
tam thiền hay tứ thiền gì cả. Đặt thêm khái niệm tam tứ gì vào đó chỉ giống như
chụp mũ cho pháp mà thôi.
Khi cảm nhận trạng thái thực, hoàn toàn thực
mới không có chụp mũ. Nếu nói đó là tứ thiền thì đã chụp mũ khái niệm vào cái
thực rồi. Nhân duyên tâm thế nào thì thấy ra như thế, người giác ngộ có thể
thấy rõ từ địa ngục cho tới Niết-bàn, nhưng không cần nói đắc tầng này tầng kia
cao thấp làm cho hành giả phát lòng tham sở đắc. Nên đức Phật dạy Pháp là trở
về mà thấy, ngay nơi thực tại, có thể thấy ngay, không qua thời gian và mỗi
người tự chứng tự biết là vậy.
Không trụ
chân đế, không xả tục đế
Hỏi: Tứ niệm xứ nói trong
thấy chỉ là thấy, trong nghe chỉ là nghe, không có tôi nghe trong đó. Vậy
khi con nghe tiếng: "Cứu tôi với" cách con 100 m, con phải hành xử
như thế nào cho phù hợp?
- Pháp có hai: Pháp thực tánh chân đế và Pháp khái
niệm tục đế, vì vậy người giác ngộ sống trong thế gian biết rõ cả 2 mặt nhưng
không loại bỏ tục đế cũng không bám trụ chân đế. Nếu trụ thực tánh chân đế
không thôi là trầm không trệ tịch, cũng sai. Pháp tu toàn diện là tục đế
thì thấy rõ tục đế, chân đế thì thấy rõ chân đế. Thấy chân đế để không tin
tưởng hoàn toàn vào tục đế, tức là “không nương tựa, không vướng mắc bất kỳ
điều gì ở đời”, nhưng cũng phải thấy rõ tục đế mới giải quyết những vấn đề
tương đối của thế gian. Vì vậy nghe kêu cứu phải biết rất rõ là giả hay thực.
Có một lần Thầy ở Sydney, nghe tiếng kêu hốt hoảng của một con quạ, Thầy vội ra
xem vì nghe tiếng kêu Thầy biết ngay con quạ đang cầu cứu, nó bị con chim khác
ăn hiếp. Thấy thầy ra con chim kia bay mất. Nên đôi lúc trong tục đế cũng cần
phân biệt thật rõ ràng xem kêu cứu thật hay giả như Tôn Ngộ Không mới được, chứ
đừng vội đến cứu mà bị ma quỷ bắt ăn thịt như Đường Tăng thì nguy. Không phải
cứ tưởng mình nguyện hạnh Bồ-tát rồi gặp gì cũng cứu thì chỉ là bi không trí mà
thôi.
Giữa tục đế và chân đế, như thấy cây cột, nói đó là
cây cột, là tục đế, nhưng vẫn thấy đây chỉ là một pháp như nó là, đây chỉ
là tứ đại giả hợp, đây chỉ là một hiện tượng duyên khởi chứ không có cây cột gì
cả, nghĩa là vẫn thấy đâu là tục đế, đâu là chân đế. Thí dụ nghe tiếng chuông
báo hiệu biết là giờ ăn trưa, biết đến giờ lên trai đường lấy bát, đó là tục
đế. Nhưng nếu chỉ biết như thế thì chẳng khác phàm tục nên người tu phải biết
trong nghe chỉ nghe, trong thấy chỉ thấy để không hoàn toàn bị khái niệm tục đế
chi phối. Cũng ví như người biết ngôi nhà của mình thì cho dù có đi du lịch xa
(tục đế) cũng biết chỗ về (chân đế), còn người không biết nhà mình thì đi đâu
cũng xem như đang bị lạc.
Ngoài phân biệt tục đế và chân đế, còn một cách
nhìn khác là tánh và tướng, thật và ảo. Người giác ngộ không những thấy
tánh trong chân đế mà còn thấy tánh của tướng duyên khởi và thấy luôn cả tướng
ảo do tưởng sinh. Như vậy thế giới này có 3 mặt: 1/ Mặt ảo. 2/ Mặt thực tướng
duyên khởi. 3/ Mặt tự tánh chân đế (Thánh đế và Niết bàn). Người thực hành sống
đạo cần thường thấy ra lúc nào là ảo, lúc nào là duyên khởi, lúc nào ở trong ảo
hoá và duyên khởi mà vẫn “không động, không sầu, tự tại và vô nhiễm” của
Niết-bàn.
Phân biệt
tâm bất động của Định và Tuệ
Hỏi: Khi ngồi thiền tâm con
bất động, tâm buông xuống, hoàn toàn yên lặng, trong con không có niệm gì khởi
lên. Vậy lúc đó con đã trở về tâm rỗng lặng trong sáng hay là tâm trong lành,
định tĩnh, sang suốt và biết tất cả như nó đang là chưa? Con vẫn chưa được rõ.
- Có hai loại tâm bất động: Bất động của định và
bất động của tuệ. Tâm bất động của định thì chỉ bất động trên một đối tượng, và
không quan tâm đến các đối tượng khác, còn bất động của tuệ thì thấy biết mọi
đối tượng đến đi như nó đang là chứ không khởi niệm lấy bỏ. Trong bất động của
tuệ tánh biết tuỳ lúc, tuỳ nơi, tuỳ đối tượng mà tự ứng, khi hữu sự thì thận
trọng chú tâm quan sát, khi vô sự thì trở về trọn vẹn tỉnh thức, khi ứng ra bên
ngoài thì trong lành định tĩnh sáng suốt, khi buông xả thì rỗng rang lặng lẽ
trong sáng một cách tự nhiên thuận pháp chứ không còn ý đồ của bản ngã nên tuy
trong động mà vẫn bất động. Điều này mỗi người phải tự chứng mới biết đang ở
trạng thái bất động nào.
Chỉ cần
nghiêm túc, không cần nghiêm trọng.
Hỏi: Xin Thầy chỉ dạy thêm
Thiền trong đời sống hàng ngày. Sống trọn vẹn với thân tâm như nó đang là. Phải
sống nghiêm túc với chính mình trong mọi hoạt động hàng ngày như thế nào?
- Khi đi trọn vẹn tỉnh thức biết rõ đang đi. Cũng
vậy biết mình trong mọi hành động, trong mọi cảm giác, cảm xúc, trong mọi trạng
thái hoặc thái độ nội tâm, trong mọi sự tương giao hoặc mối quan hệ với pháp.
Biết lúc nào cần thận trọng chú tâm quan sát, lúc nào chỉ cần trở về trọn vẹn
tỉnh thức. Lúc nào đối pháp tâm vẫn trong lành định tĩnh sáng suốt, lúc nào
buông ra để tâm trở về với bản chất rỗng lặng trong sáng nơi chính nó. Đó là
tất cả giới định tuệ tự tánh có sẵn, sẽ ứng ra tùy mọi trường hợp. Cho nên khi
pháp đến thì tâm tự ứng, khi pháp đi thì tâm trở về rỗng lặng như hư không.
Cụ thể như bây giờ nghe chuông báo đến giờ ăn sáng,
hết giờ trà đạo, thì Thầy nhìn xuống xem dép ở đâu, đưa chân xuống, mang dép
vào, đứng dậy đi… mỗi mỗi đều rõ ràng là tu chứ có tu gì nghiêm trọng quá đâu!
Chỉ cần nghiêm túc, không cần nghiêm trọng.
Tác giả: Thầy Viên Minh