Kinh Tụng Pali: KINH VÔ NGÃ TƯỚNG - ANATTALAKKHAṆA SUTTA - The Discourse on the Not-self Characteristic

Sau khi chuyển Pháp luân vào ngày rằm tháng 6 tại khu rừng Isipatana gần kinh thành Bārāṇasī, khi nhóm 5 vị tỳ khưu đã tuần tự chứng đắc quả Nhập lưu, Đức Thế Tôn thuyết bài kinh này, nhằm ngày thứ 5 của tuần trăng xuống, vì mục đích giải thoát giác ngộ. Này quý vị thiện tri thức, nay chúng tôi tụng bài kinh ấy.






Con (là Ānanda) đã nghe như thế này:
Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự tại khu vườn nai Isipatana gần thành Bārāṇasī.
Khi ấy Đức Thế Tôn gọi nhóm 5 tỳ khưu rằng:
“Này chư  tỳ khưu!”
Các vị tỳ khưu đáp:
“Dạ kính bạch Đức Thế Tôn.”
Đức Thế Tôn thuyết rằng:
"Này chư   tỳ khưu,sắc uẩn này là vô ngã.
Thật vậy, nếu sắc uẩn này là ta thì sắc uẩn này không có bệnh hoạn.
Và các con có thể mong muốn ở trong sắc uẩn rằng “sắc của tôi phải như thế này, sắc của tôi đừng như thế kia.”
Này chư   tỳ khưu, bởi vì sắc uẩn là vô ngã, cho nên sắc uẩn phải chịu biến đổi, bệnh hoạn.
Và các con cũng không thể đạt được trong sắc uẩn rằng: “sắc của tôi phải như thế này, sắc của tôi đừng như thế kia.”
“Này chư   tỳ khưu, thọ uẩn này là vô ngã.
Thật vậy, này chư   tỳ khưu, nếu thọ uẩn này là ta thì thọ uẩn này sẽ không chịu đau đớn, biến hoại.
Và các con có thể mong muốn ở trong thọ uẩn rằng “cảm thọ của tôi sẽ như thế này, cảm thọ của tôi đừng như thế kia.”
Này chư  tỳ khưu, bởi thọ uẩn là vô ngã, cho nên thọ uẩn phải chịu đau đớn, biến hoại.
Và các con cũng không đạt được trong thọ uẩn rằng: “cảm thọ của tôi phải như thế này, cảm thọ của tôi đừng như thế kia”.
Này chư   tỳ khưu, tưởng uẩn này là vô ngã.
Thật vậy, này chư  tỳ khưu, nếu tưởng uẩn này là ta thì tưởng uẩn này sẽ không chịu biến đổi.
Và các con có thể mong muốn ở trong tưởng uẩn rằng: “tưởng uẩn của tôi phải như thế này, tưởng uẩn của tôi đừng như thế kia”.
Này chư  tỳ khưu, bởi vì tưởng uẩn là vô ngã, cho nên tưởng uẩn phải chịu biến đổi.
Và các con cũng không thể đạt được trong tưởng uẩn rằng: “tưởng uẩn của tôi phải như thế này, tưởng uẩn của tôi đừng như thế kia”.
“Hành uẩn này là vô ngã.
Thật vậy, này chư  tỳ khưu, nếu hành uẩn này là ta thì hành uẩn này sẽ không chịu sanh diệt, biến hoại.
Và các con có thể mong muốn trong hành uẩn rằng: “Hành uẩn của tôi phải như thế này, hành uẩn của tôi đừng như thế kia”.
Này chư tỳ khưu, bởi vì hành uẩn là vô ngã, cho nên hành uẩn phải chịu sanh diệt, biến hoại.
Và các con cũng không thể đạt được trong hành uẩn rằng: “Hành uẩn của tôi phải như thế này, hành uẩn của tôi đừng như thế kia”.
"Thức uẩn này là vô ngã.
Thật vậy, này chư  tỳ khưu, nếu thức uẩn này là ta thì thức uẩn này sẽ không thay đổi, biến dịch.
Và các con có thể mong muốn ở trong thức uẩn rằng: “thức uẩn của tôi phải như thế này, thức uẩn của tôi đừng như thế kia”.
Này chư  tỳ khưu, bởi vì thức uẩn là vô ngã, cho nên thức uẩn phải chịu thay đổi, biến dịch.
Và các con cũng không thể đạt được trong thức uẩn rằng: “thức uẩn của tôi phải như thế này, thức của tôi đừng như thế kia”.
Này các tỳ khưu, các con hiểu như thế nào về lời nói của Như Lai? Sắc uẩn là thường hay vô thường?
Bạch Đức Thế Tôn, vô thường.
Sắc uẩn nào là vô thường, sắc uẩn ấy là khổ hay là lạc?
Bạch Đức Thế Tôn, khổ.
Cái gì có trạng thái vô thường, khổ và biến hoại, có nên chấp cái đó rằng: “Sắc uẩn này là của ta, sắc uẩn ấy là ta, sắc uẩn ấy là tự ngã của ta?”
Bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên
- Thọ uẩn là thường hay vô thường?
- Bạch Đức Thế Tôn, vô thường.
- Thọ uẩn nào là vô thường, thọ uẩn ấy là khổ hay là lạc?
- Bạch Đức Thế Tôn, khổ.
- Cái gì có trạng thái vô thường, khổ và biến hoại, có nên chấp cái đó rằng: “Thọ uẩn này là của ta, thọ uẩn ấy là ta, thọ uẩn ấy là tự ngã của ta?”
- Bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên.
- Tưởng uẩn là thường hay vô thường?
- Bạch Đức Thế Tôn, vô thường.
- Tưởng uẩn nào là vô thường, tưởng uẩn ấy là khổ hay là lạc?
- Bạch Đức Thế Tôn, khổ.
- Cái gì có trạng thái vô thường, khổ và biến hoại, có nīn chấp cái đó rằng: “Tưởng uẩn ấy là của ta, tưởng uẩn ấy là ta, tưởng uẩn ấy là tự ngã của ta?”
- Bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên.
- Hành uẩn là thường hay vô thường?
- Bạch Đức Thế Tôn, vô thường.
- Hành uẩn nào là vô thường, hành uẩn ấy là khổ hay là lạc?
- Bạch Đức Thế Tôn, khổ.
- Cái gì có trạng thái vô thường, khổ và biến hoại, có nên chấp cái đó rằng: “Hành uẩûn ấy là của ta, hành uẩn ấy là ta, hành uẩn ấy la tự ngã của ta?”
- Bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên.
Thức uẩn là thường hay vô thường?
Bạch Đức Thế Tôn, vô thường.
Thức uẩn nào là vô thường, thức uẩn ấy là khổ hay là lạc?
Bạch Đức Thế Tôn, khổ.

Cái gì có trạng thái vô thường, khổ và biến hoại, có nên chấp cái đó rằng: “Thức uẩn ấy là của ta, thức uẩn ấy là ta, thức uẩn ấy là tự ngã của ta?”
Bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên.
Vì vậy, này các tỳ khưu, nên thấy rõ bằng trí tuệ thiền tuệ đúng theo thực tánh tất cả các pháp rằng: “Những sắc nào trong quá khứ, trong vị lai, hay trong hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô hay tế, thấp kém hay cao quý, xa hay gần, tất cả những sắc ấy không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta.”
Vì vậy, này các tỳ khưu, nên thấy rõ bằng trí tuệ thiền tuệ đúng theo thực tánh tất cả các pháp rằng: “Những cảm thọ nào trong quá khứ, trong vị lai, hay trong hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô hay tế, thấp kém hay cao quý, xa hay gần, tất cả những cảm thọ ấy không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta.”
Vì vậy, này các tỳ khưu, nên thấy rõ bằng trí tuệ thiền tuệ đúng theo thực tánh tất cả các pháp rằng: “Những tưởng nào trong quá khứ, trong vị lai, hay trong hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô hay tế, thấp kém hay cao quý, xa hay gần, tất cả những tưởng ấy không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta.”
Vì vậy, này các tỳ khưu, nên thấy rõ bằng trí tuệ thiền tuệ đúng theo thực tánh tất cả các pháp rằng: “Những hành nào trong quá khứ, trong vị lai, hay trong hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô hay tế, thấp kém hay cao quý, xa hay gần, tất cả những hành ấy không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta.”
Này các tỳ khưu, bằng trí tuệ thấy rõ ngũ uẩn này không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta, bậc Thánh Thanh văn nhàm chán trong sắc uẩn, nhàm chán trong thọ uẩn, nhàm chán trong tưởng uẩn, nhàm chán trong hành uẩn, nhàm chán trong thức uẩn. Khi nhàm chán như vậy, thì tâm không còn tham ái. Do không tham ái nên giải thoát. Trí tuệ thấy rõ giải thoát đây chính là giải thoát thật sự. Không còn sự tái sanh. Phạm hạnh đã hoàn thành. Phận sự cần làm đã làm xong. Vị ấy biết rõ từ kiếp này không còn kiếp sau nữa.
Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh này xong, nhóm 5 tỳ khưu vô cùng hoan hỷ với lời dạy của Đức Thế Tôn.
Ngay trong khi thuyết giảng bài kinh này, tâm giải thoát khỏi những phiền não trầm luân không còn chấp thủ nơi ngũ uẩn đã phát sanh đến với nhóm 5 vị tỳ khưu.



ANATTALAKKHAṆA SUTTA


Evaṃ me suttaṃ
Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Bārāṇasiyaṃ viharati Isipatane Migadāye.
Tatra kho Bhagavā pañcavaggiye bhikkhū āmantesi “Bhikkhavo” ti.
“Bhadante” ti te bhikkhū Bhagavato paccassosuṃ.
Bhagavā etad’avoca—
1. Rūpaṃ, bhikkave, anattā.
Rūpañca hidaṃ, bhikkhave, attā abhavissa, nayidaṃ rūpaṃ ābādhāya saṃvatteyya.
Labbhetha ca rūpe “Evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosī” ti.
Yasmā ca kho bhikkhave rūpaṃ anattā, tasmā rūpaṃ ābādhāya saṃvattati.
Na ca labbhati rūpe “Evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosī” ti.
2. Vedanā anattā.
Vedanā ca hidaṃ bhikkhave attā abhavissa, nayidaṃ vedanā ābādhāya saṃvatteyya.
Labbhetha ca vedanāya “Evaṃ me vedanā hotu, evaṃ me vedanā mā ahosī” ti.
Yasmā ca kho bhikkhave vedanā anattā, tasmā vedanā ābādhāya saṃvattati.
Na ca labbhati vedanāya “Evaṃ me vedanā hotu, evaṃ me vedanā mā ahosī” ti.
3. Saññā anattā.
Saññā ca hidaṃ bhikkhave attā abhavissa, nayidaṃ saññā ābādhāya saṃvatteyya.
Labbhetha ca saññāya “Evaṃ me saññā hotu, evaṃ me saññā mā ahosī” ti.
Yasmā ca kho bhikkhave saññā anattā, tasmā saññā ābādhāya saṃvattati.
Na ca labbhati saññāya “Evaṃ me saññā hotu, evaṃ me saññā mā ahosī” ti.
4. Saṅkhārā anattā.
Saṅkhārā ca hidaṃ bhikkhave attā abhavissaṃsu, nayidaṃ saṅkhārā ābādhāya saṃvatteyyum.
Labbhetha ca saṅkhāresu “Evaṃ me saṅkhārā hontu, evaṃ me saṅkhārā mā ahesun” ti.
Yasmā ca kho bhikkhave saṅkhārā anattā, tasmā saṅkhārā ābādhāya saṃvattanti.
Na ca labbhati saṅkhāresu “Evaṃ me saṅkhārā hontu, evaṃ me saṅkhārā mā ahesun” ti.
5. Viññāṇaṃ anattā
Viññāṇañca hidaṃ bhikkhave attā abhavissa, nayidaṃ viññāṇaṃ ābādhāya saṃvatteyya.
Labbhetha ca viññāṇe “Evaṃ me viññāṇaṃ hotu, evaṃ me viññāṇaṃ mā ahosī” ti.
Yasmā ca kho bhikkhave viññāṇaṃ anattā, tasmā viññāṇaṃ ābādhāya saṃvattati.
Na ca labbhati viññāṇe “Evaṃ me viññāṇaṃ hotu, evaṃ me viññāṇaṃ mā ahosī” ti.
6. Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave:
- Rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā’ti?
- “Aniccaṃ, Bhante”.
- Yaṃ pan’āniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā’ti.
- “Dukkhaṃ, Bhante”.
- Yaṃ pan’āniccaṃ dukkhaṃ viparināma-dhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ “Etaṃ mama, eso’ham’asmi, eso me attā” ti?
- No he’taṃ, Bhante.
7. Vedanā niccā vā aniccā vā’ti?
- Aniccā Bhante.
- Yaṃ pan’āniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā’ti?
- Dukkhaṃ Bhante.
- Yaṃ pan’āniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāma-dhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ “Etaṃ mama, eso’ham’asmi, eso me attā” ti?
- No he’taṃ Bhante.
8. - Saññā niccā vā aniccā vā’ti?
- Aniccā, Bhante.
- Yaṃ pan’āniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā’ti?
- Dukkhaṃ, Bhante.
- Yaṃ pan’āniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāma-dhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ “Etaṃ mama, eso’ham’asmi, eso me attā” ti?
- No he’taṃ Bhante.
9. - Saṅkhārā niccā vā aniccā vā’ti?
- Aniccā Bhante.
- Yaṃ pan’āniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā’ti?
- Dukkhaṃ, Bhante.
- Yaṃ pan’āniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāma-dhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ “Etaṃ mama, eso’ham’asmi, eso me attā” ti?
- No he’taṃ Bhante.
10. - Viññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā’ti?
- Aniccaṃ, Bhante.
- Yaṃ pan’āniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā’ti?
- Dukkhaṃ Bhante.
- Yaṃ pan’āniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāma-dhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ “Etaṃ mama, eso’ham’asmi, eso me attā” ti?
- No he’taṃ Bhante.
11. Tasmā tiha, bhikkhave, yaṃ kiñci rūpaṃ atītā’nāgata-paccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ rūpaṃ “N’etaṃ mama, n’eso’ham’asmi, na m’eso attā” ti evametaṃ yathābhūtaṃ samma-ppaññāya daṭṭhabbaṃ.
12. Yā kāci vedanā atītā’nāgata-paccuppannā ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā vā yā dūre santike vā, sabbā vedanā “N’etaṃ mama, n’eso’ham’asmi, na m’eso attā”ti evam'etaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
13. Yā kāci saññā atītā’nāgata-paccuppannā ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā vā yā dūre santike vā, sabbā saññā “N’etaṃ mama, n’eso’ham’asmi, na m’eso attā”ti evam'etaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
14. Ye keci saṅkhārā atītā’ nāgata-paccuppannā ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā vā yā dūre santike vā, sabbe saṅkhārā “N’etaṃ mama, n’eso’ham’asmi, na m’eso attā”ti evam'etaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.

15. Yaṃ kiñci viññāṇaṃ atītā’ nāgata-paccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ viññāṇaṃ “N’etaṃ mama, n’eso’ ham’asmi, na m’eso attā”ti evam'etaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
16. Evaṃ passaṃ bhikkhave sutavā Ariyasāvako rūpasmimpi nibbindati, vedanāyapi nibbindati, saññāyapi nibbindati, saṅkhāresupi nibbindati, viññāṇasmimpi nibbindati. Nibbindaṃ virajjati. Virāgā vimuccati. Vimuttasmiṃ vimuttam'iti ñāṇaṃ hoti. Khīṇā jāti. Vusitaṃ brahmacariyaṃ. Kataṃ karaṇīyaṃ. Nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti.
17. Idamavoca Bhagavā attamanā pañcavaggiyā bhikkhū Bhagavato bhāsitaṃ abhinanduṃ.
Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne pañcavaggiyānaṃ bhikkhūnaṃ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsu’ti.
Anattalakkhaṇasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

http://www.trungtamhotong.org/thuvien/index.php?module=mucluc&function=detail&id=391


Anatta-lakkhana Sutta: The Discourse on the Not-self Characteristic

Thus I heard. On one occasion the Blessed One was living at Benares, in the Deer Park at Isipatana (the Resort of Seers). There he addressed the bhikkhus of the group of five: "Bhikkhus." — "Venerable sir," they replied. The Blessed One said this.
"Bhikkhus, form is not-self. Were form self, then this form would not lead to affliction, and one could have it of form: 'Let my form be thus, let my form be not thus.' And since form is not-self, so it leads to affliction, and none can have it of form: 'Let my form be thus, let my form be not thus.'
"Bhikkhus, feeling is not-self...
"Bhikkhus, perception is not-self...
"Bhikkhus, determinations are not-self...
"Bhikkhus, consciousness is not self. Were consciousness self, then this consciousness would not lead to affliction, and one could have it of consciousness: 'Let my consciousness be thus, let my consciousness be not thus.' And since consciousness is not-self, so it leads to affliction, and none can have it of consciousness: 'Let my consciousness be thus, let my consciousness be not thus.'
"Bhikkhus, how do you conceive it: is form permanent or impermanent?" — "Impermanent, venerable Sir." — "Now is what is impermanent painful or pleasant?" — "Painful, venerable Sir." — "Now is what is impermanent, what is painful since subject to change, fit to be regarded thus: 'This is mine, this is I, this is my self'"? — "No, venerable sir."
"Is feeling permanent or impermanent?...
"Is perception permanent or impermanent?...
"Are determinations permanent or impermanent?...
"Is consciousness permanent or impermanent?" — "Impermanent, venerable sir." — "Now is what is impermanent pleasant or painful?" — "Painful, venerable sir." — "Now is what is impermanent, what is painful since subject to change, fit to be regarded thus: 'This is mine, this is I, this is my self'"? — "No, venerable sir."
"So, bhikkhus any kind of form whatever, whether past, future or presently arisen, whether gross or subtle, whether in oneself or external, whether inferior or superior, whether far or near, must with right understanding how it is, be regarded thus: 'This is not mine, this is not I, this is not myself.'
"Any kind of feeling whatever...
"Any kind of perception whatever...
"Any kind of determination whatever...
"Any kind of consciousness whatever, whether past, future or presently arisen, whether gross or subtle, whether in oneself or external, whether inferior or superior, whether far or near must, with right understanding how it is, be regarded thus: 'This is not mine, this is not I, this is not my self.'
"Bhikkhus, when a noble follower who has heard (the truth) sees thus, he finds estrangement in form, he finds estrangement in feeling, he finds estrangement in perception, he finds estrangement in determinations, he finds estrangement in consciousness.
"When he finds estrangement, passion fades out. With the fading of passion, he is liberated. When liberated, there is knowledge that he is liberated. He understands: 'Birth is exhausted, the holy life has been lived out, what can be done is done, of this there is no more beyond.'"
That is what the Blessed One said. The bhikkhus were glad, and they approved his words.
Now during this utterance, the hearts of the bhikkhus of the group of five were liberated from taints through clinging no more.

Source: https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn22/sn22.059.nymo.html