Ngập Sâu Trong Ân Sủng (Knee Deep In Grace)




Cuộc đời của Thiền sư Dipa Ma đã được tác giả Amy Schmidt đem vào tác phẩm “Knee Deep in Grace, The extraordinary Life and Teaching of Dipa Ma”. Sau đó, tác phẩm nầy được bổ túc thêm để trở thành tác phẩm mang tên “Dipa Ma ,The Life and Legacy of a Buddhist Master”.
Dipa Ma (1911- 1989) ra đời tại Chittagong, một làng nhỏ nằm về phía Đông xứ Bengal (ngày nay là Bengladesh). Lúc dó Bà mang tên là Nani Bala Barua chớ chưa phải là Dipa Ma.

Cuộc đời đầy khổ đau và nghịch cảnh
Cuộc đời của bà lắm gian truân và nhiều nghịch cảnh. Lấy chồng năm 12 tuổi, và lúc được 16 tuồi bà phải theo chồng sang sinh sống tại Miến Điện.
Hai năm sau mẹ ruột của bà qua đời bất thình lình và để lại đứa con trai vừa mới có hai tuổi. Bà quyết định đem cháu bé cũng đồng thời là em trai về nuôi tại Miến Điện vì lúc đó vợ chồng bà chưa có đứa con nào cả.
Đến năm 35 tuổi , bà sanh được đứa con đầu lòng. Đó là một cháu gái, nhưng chẳng may cháu chết đi vì bệnh tật ba tháng sau đó.
Bốn năm sau, ở vào lứa tuổi 39, bà lại sanh thêm được một đứa con gái khác và đặt tên là Dipa. Bà hết sức là vui mừng với sự ra đời của cháu Dipa. Để ghi nhớ biến cố trọng đại này bà quyết định bảo mọi người từ nay hãy gọi bà là Dipa Ma , có nghĩa là mẹ của Dipa. Dipa cũng còn có nghĩa là ánh sáng nữa.
Nhưng khổ ải vẫn còn đeo đuổi theo bà. Đó là sự ra đ
i của đứa con trai duy nhất mà bà vừa mới sanh ra đời. Tiếp theo là chồng bà lìa đời một cách đột ngột vì bịnh tim. Tất cả những biến cố dồn dập trên đã làm bà hao mòn sức khỏe tâm thần lẫn thể xác. Bà rất yếu, hầu như chỉ còn nằm một chỗ.
Là một Phật tử, bà suy nghiệm rằng chỉ còn một con đường duy nhất để mong thoát khỏi tâm trạng khổ ải phiền não. Đó là phải tìm đến một thiền viện để học tập cách hành thiền.
Sau đó bà giàn xếp gia đình và đem gởi cô con gái cho người bạn láng giềng thân tính trong nom hộ. Tất cả của cải và nữ trang riêng của bà cũng được giao cho người bạn vì bà nghỉ rằng lúc chết có ai mang theo được cái gì đâu.
Bà lên thủ đô Rangoon và tham dự các khóa thiền tại Thiền Viện Kamayut Meditation Center. Các bài giảng đều bằng tiếng Miến Điện nên đã không ít gây trở ngại cho bà trong buổi ban đầu. Nhưng bà vẫn quyết tâm và kiên trì trong học tập.
Tình cờ cơ duyên đã giúp bà gặp được thiền sư Munindra, người đồng hương Ấn Độ như bà. Thiền sư Munindra lúc đó đang giảng dạy thiền Vipassana tại một thiền viện khác. Ngài khuyên bà nên đến thiền viện Thathana Yeikitha để tu học. Thiền viện nầy do Đại sư Mahasi Sayadow trách nhiệm. Ngài là một đại sư Phật Giáo và đồng thời cũng là một thiền sư nổi tiếng tại Miến điện.
Bà tham dự một khóa an cư kiết hạ thứ hai tại thiền viện mới trong một bối cảnh chu đáo và ổn định hơn khóa học đầu tiên tại Rangoon.
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight). Đây là một giai đoạn tiền giác ngộ (enlightement), đúng theo kinh Phật giáo Nguyên Thủy. Bà cảm thấy ánh sáng tỏa ra khắp không gian, tiếp theo đó là cảm giác mọi sự vật quanh bà đều tan biến hết. Thân bà, sàn nhà, tất cả cảnh vật xung quanh đều tan thành mảnh nhỏ và trở nên trống không empty.
Lúc đó Bà phải chịu đựng một sự đau đớn vô cùng tận về thể xác và cả về tâm ý. Hình như như có một ngọn lửa đang bùng cháy trong thân thể bà đến đổi có thể nổ tung ra vì áp suất quá lớn.
Nhưng rồi một hiện tượng lạ thường xảy đến sau đó. Trong lúc ngồi thiền với nhiều thiền giả trên sàn nhà, bà cảm thấy như có một sự chuyển tiếp bất ngờ hiện ra. Đó là một sự tỉnh lặng lạ thường bao trùm cả không gian. Sau nầy, thiền sư Dipa đã cho biết: ”Tôi không biết tại sao từ giây phút đó cuộc đời của tôi đã được thay đổi hoàn toàn.”
Sau ba thập niên tìm sự tự do, đến tuổi 53 và sau một ngày hành thiền, Bà Dipa Ma đã đạt đến được bậc đầu tiên của giác ngộ (Theo Phật giáo Nguyên thủy: có tất cả bốn cấp bậc trong sự giác ngộ).
Ngay trong lúc đó, áp huyết của Bà trở lại bình thường, nhịp tim chậm lại. Lúc trước bà bước lên các bật thang rất khó khăn và mệt nhọc vô cùng, nay thì ngược lại, Bà đi đứng dễ dàng, nhanh lẹ mà không cảm thấy một cảm giác mệt nhọc nào cả.
Bà cũng thố lộ, trong một giấc chiêm bao, Đức Phật có cho Bà biết tất cả sầu muộn, sợ hãi của Bà từ bấy lâu nay đều tan biến hết và để lại trong Bà một tâm xả (equanimity) chưa từng thấy bao giờ và một trí huệ trong sáng giúp Bà đương đầu với mọi việc (clear understanding).
Bà hành thiền thêm hai tháng nữa tại Thiền viện Thakana Yeiktha, sau đó thì trở về lại Rangoon.
Trong những kỳ an cư kế tiếp, Bà đã tiến bộ thêm lên nữa. Bà đạt được bậc 2 của giác ngộ. Thân tâm Bà cũng thay đổi theo đó. Lúc trước, Bà là một người đàn bà ốm yếu, bệnh hoạn, phải lệ thuộc vào người khác, nay thì ngược lại Bà rất khỏe mạnh và không cần phải lệ thuộc vào một ai cả.
Theo như Bà nói “Như các bạn thấy, tôi tả tơi vì đã mất chồng (1957) và mất con. Tôi đau khổ vô ngần hầu như không thể di chuyển được, nhưng nay thì tôi đã hết bệnh, tươi tắn trở lại. Không còn cái gì ảnh hưởng được vào tâm hồn tôi cả. Không còn buồn phiền, không còn khổ nảo. Tôi rất hạnh phúc. Nếu các bạn hành thiền thì các bạn cũng sẽ được hạnh phúc. Thiền minh sát Vipassana không phải là cái gì là ma thuật cả, chỉ cần tuân theo sự chỉ dẫn mà thôi.” (all my disease is gone. I’m refreshned, and there is nothing in my mind. There is no sorrow, no grief. I’m quite happy. If you come to meditate you will also be happy. There is no magic, only follow the instructions.)
Năm 1963, dưới sự hướng dẫn của thiền sư Munindra, thiền sư Dipa đạt được đến bậc “nhận thức thần thông” (Siddhis magic powers).
“Bà cụ Dipa Ma sau khi học Thiền Minh Sát, được thầy dạy thêm các pháp về thần thông – phân thân, tàng hình, đằng không, nhìn lại quá khứ, đoán chuyện tương lai, vân vân... tất cả đều do sức định mà thành – các khả năng mà về sau bà cụ rời bỏ vì cho là không cần thiết cho trí tuệ giải thoát. Điều chúng ta muốn nói nơi đây rằng có những chỗ mà nhục nhãn không thể nhìn thấy được, và cái gọi là kiến thức khoa học vẫn còn rất là xa với cảnh giới mà các đại thành tựu giả nhìn thấy, thí dụ như về cõi chư Thiên.”

 (Trích từ Chú giải về P’HOWA Cư sĩ Nguyên Giác dịch, thuvienhoasen.org).
Năm 1967, Bà trở về xứ và sống tại một khu nhà bình dân trong thành phố Calculta, Ấn Độ.
Bà mở lớp hướng dẫn thiền ngay trong nhà của mình. Đa số thiền giả là các bà nội trợ. Ngoài ra cũng còn có nhiều khách ngoại quốc, đặc biệt là Hoa Kỳ, đến tham dự các khóa thiền của Bà. Trong số nầy phải kể đến Joseph Goldstein, Jack Kornfield và Sharon Salzberg. Tất cả các người nầy đã trở thành những thiền sư lỗi lạc và uy tín. Họ đã khai sáng, điều khiển và hướng dẫn thiền Vipassana tại Hoa kỳ, đặc biệt là tại các trung tâm vùng Massachusetts và California.
Năm 1980, Thiền sư Dipa Ma đã được các môn đệ thỉnh mời sang Hoa Kỳ hai lần để hướng dẫn các khóa an cư tại thiền viện Massachusetts và California.
Mười bài học của Thiền sư Dipa Ma  (Thiện Nhựt dịch):
1) Nếu bạn muốn có tiến bộ về thiền quán. Phải kiên trì giữ theo một kỹ thuật duy nhứt mãi. ( Choose one meditation practice and stick with it. If you want to progress in meditation, stay with one technique.)
2) Phải ngồi thiền mỗi ngày. Phải tập ngay bây giờ. Đừng tưởng bạn sẽ làm nhiều hơn về sau." (Meditate every day. Practice now.Don’t think you will do more later.)
3) Sử dụng mọi trường hợp. 
"Mỗi người chúng ta đều có năng lực vĩ đại. Hãy dùng năng lực đó để tự cứu mình và giúp đỡ kẻ khác." (Any situation is workable. Each of us has enormous power.It can be used to help ourselves and help others.)
4) Tập nhẫn nhục. Nhẫn nhục là đức tánh quan trong nhứt để phát triển tỉnh giác và định lực. (Practice patience. Patience is one of the most important virtues for developing mindfulness and concentration.)
5) Hãy giải thoát tâm của bạn. Tâm của bạn còn đầy vọng tưởng (Free your mind. Your mind is all stories.)
6) Hãy dập tắt ngọn lửa tình cảm. Sân hận là ngọn lửa (Cool the fire of emotions. Anger is a fire.)
7) Hãy cứ vui hưởng lạc thú ở dọc đường. Tôi rất vui sướng. Nếu bạn đến tập thiền, bạn cũng sẽ vui sướng. (Have fun along the way. I am quite happy. If you come to meditate, you will also be happy.)
8) Giản dị hoá. Hãy sống cuộc đời bình dị. Một đời sống giản dị bao giờ cũng tốt cho mọi sự. Quá nhiều xa hoa làm chướng ngại cho sự tu tập. (Simplify. Live simply. A very simple life is good for everything. Too much luxury is a hindrance to practice.)
9) Vun bồi tinh thần chúc phước lành. Nếu bạn chúc lành cho người chung quanh bạn, bạn sẽ được thêm sự chú tâm vào mọi phút giây (Cultivate the spirit of blessing. If you bless those around you, this will inspire you to be attentive in every moment.)
10) Một hành trình theo vòng tròn. Thiền quán thành toàn nhơn cách con người (It’s a circular journey. Meditation integrates the whole person.)
Năm 1989 tại Calcutta, Thiền sư Dipa Ma ra đi một cách êm ái và thanh tịnh sau khi đã cung kính chấp tay lễ Phật rồi nhắm mắt lại./.

Xin mời đọc: