Phước
báu
Hỏi: Thưa Thầy, trước đây
con nghĩ rằng đi chùa là có phước nên thích đi chùa, nhưng từ
khi con biết sống “tuỳ duyên thuận pháp” mỗi khi có ai rủ đi chùa hoặc làm
phước gì con thường suy nghĩ nên hay không nên làm. Suy nghĩ đắn đo
như vậy là tốt hay xấu thưa Thầy?
- Trong
tâm thiện có 2 biểu hiện:
•
Tâm thiện do đức tin (cảm tính).
•
Tâm thiện do trí tuệ (lý tính).
Tâm thiện do trí tuệ gọi là tuỳ pháp hành cao
hơn tâm thiện do đức tin gọi là tùy tín hành. Do đó đắn đo suy nghĩ
kỹ theo thực tế trước khi làm và trong khi làm cho đúng tốt, cho hợp thời hợp
chỗ là làm thiện có trí tuệ. Phước còn tùy vào nhiều yếu tố khác như làm
với tâm hỷ hay tâm xả, việc làm đem lại hiệu quả lâu dài hay nhất thời, làm lợi
ích cho số đông hay cá nhân, làm vì bản ngã hay vô ngã, tự làm hay làm theo
người khác, làm để được phước hay làm để xả ly v.v… Vì vậy khi làm gì càng thấy
rõ biết rõ nhiều yếu tố nhân duyên càng không bị sai lầm. Đắn đo trong hướng
tâm đúng tốt gọi là chánh tư duy.
Đắn đo
suy nghĩ
Hỏi: Kính thưa sư ông, xin sư ông chỉ
thêm cho con về sự đắn đo suy nghĩ thuộc về trí và sự phân vân lựa
chọn thuộc tâm bất thiện ạ?
- Nếu đắn đo suy nghĩ dựa trên sự thật
để biết cái nào đúng cái nào sai mà làm cho tốt thì thuộc về trí tuệ
chánh tư duy, đó là tâm thiện hợp với trí. Còn đắn đo suy nghĩ do
phân vân nghi hoặc, lưỡng lự bất nhất thì thuộc về tâm si, đó là tâm bất
thiện. Tâm si có 3 yếu tố: nghi hoặc, hôn trầm, trạo cử. Do đó, cần thường
tự soi sáng để biết rõ thái độ tâm như thế nào, mới biết được suy nghĩ nào là
thiện, suy nghĩ nào là bất thiện.
Hỏi: Thưa sư ông, có phải đắn đo suy
nghĩ để xem cái nào tốt hơn thì vẫn thuộc về tâm bất thiện phải không
thưa sư ông?
Điều này rất vi tế, phải quan sát tâm mới thấy ra
những yếu tố gì thiện hay bất thiện chứ không nên vội kết luận. Một tâm
bao hàm rất nhiều tâm sở. Tâm sở mà thay đổi thì tâm cũng thay
đổi. Nếu không quan sát kỹ thì khó nhận biết được đâu là thiện đâu là bất
thiện. Nhiều khi lúc đầu tưởng là thiện, về sau gặp chuyện mới nhận ra là bất
thiện. Thí dụ khi thương yêu giúp đỡ ai tưởng là mình có tâm vị tha, nhưng khi
người đó làm mình bất mãn mới biết đó chỉ là tình thương vị kỷ.
Nếu như suy nghĩ trên sự kiện thật để biết điều nào
lợi mình lợi người, điều nào hại mình hại người để hành xử đúng tốt thì đó là
tư duy thiện. Còn nếu suy nghĩ xem điều gì tốt hơn cho mình mà lại hại người
trong tranh chấp hơn thua thì đương nhiên là bất thiện rồi! Muốn có chánh tư
duy trước phải có chánh kiến, tức phải thường sáng suốt biết rõ hành động, nói
năng, suy nghĩ trong mọi lúc mọi nơi. Tự soi sáng thân tâm để không còn lầm lạc
là giác ngộ. Đó là cốt lõi của Đạo Phật.
Đạo Phật không tu luyện với mục đích đạt được
một lý tưởng cao đẹp hơn như kiểu tiểu ngã trở thành đại ngã của đạo
Bà-la-môn. Tu theo Chánh Đạo thì thấy tức là tu - thấy ra nguyên lý vận
hành của Pháp để sống tuỳ duyên thuận pháp - chứ không tu với ý đồ trở thành
bất cứ trạng thái lý tưởng nào. Bất cứ trạng thái nào đang là đều lý tưởng
nêú như tâm giác ngộ luôn rỗng lặng trong sáng.
Hành
“thâm bát-nhã”
Hỏi: Kính bạch Thầy, theo Tâm Kinh Bát-nhã, thực hành
trí tuệ thâm sâu rốt ráo (Bát-nhã ba-la-mật), soi thấy năm uẩn đều không, là
cách quan sát tâm với độ tỉnh thức trọn vẹn, không bị ảo tưởng chi phối
dẫn dắt, phải không thưa Thầy?
- Đúng, thật ra, khi thận trọng chú tâm quan
sát là đang hóa giải ngũ uẩn. Bởi vì, sâu nhất của thận trọng chú tâm quan
sát là trong thấy chỉ thấy, trong nghe chỉ nghe, trong xúc chỉ xúc, trong biết
chỉ biết nên ngũ uẩn không sinh khởi được. Thận trọng chú tâm quan sát có thể
ứng được cả hai mặt tục đế và chân đế:
• Ứng với tục đế thì không bị vướng mắc
vào 5 Uẩn, 12 Xứ, 18 Giới, 12 duyên sinh, 5 che lấp, 10 ràng buộc.
•
Ứng với chân Đế thì thấy thực tánh pháp, mà thực tánh rốt ráo nhất của
pháp là Tịch Tịnh Niết-bàn.
Toàn bộ
bốn pháp sau đây đều thể hiện tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác ứng với các tình
huống tu tập gọi là hành thâm bát-nhã:
- Thận
trọng, chú tâm, quan sát ứng với khi hữu sự.
- Trở
về, trọn vẹn, tỉnh thức ứng với khi vô sự.
- Trong
lành, định tĩnh, sáng suốt khi ứng ra với vạn pháp.
- Rỗng
rang, lặng lẽ, trong sáng" khi trở về “điềm đạm hư vô”
hay “thối tàng ư mật”.
Nên cả bốn trường hợp đều thể hiện Giới-Định-Tuệ tự
tánh thâm sâu có thể hóa giải được sự hình thành ngũ uẩn (ngũ uẩn giai
không).
Hỏi: Thưa Thầy, con thấy khi tâm hoạt
động thì có cái tâm sâu hơn biết được tâm hoạt động đó. Có phải đó là tánh biết
thấy tướng biết không thưa Thầy?
- Đúng, nhưng phải coi chừng. Khi sân nổi lên
sau đó mới biết sân đã khởi lên thì cái biết đó vẫn là tướng biết. Còn
tánh biết biết được ngay khi sân vừa khởi lên cho đến khi sân ấy diệt đi
như đức Phật dạy niệm tâm, niệm pháp trong kinh Tứ Niệm Xứ.
Hỏi: Thưa Thầy, phải dùng thái độ cứng
rắn để nói cho người khác hiểu, nhìn thì có vẻ sân nhưng sự thật không
phải là sân phải không thưa Thầy?
- Có người Bà-la-môn cho rằng Pháp là cái gì
cao siêu mầu nhiệm phải tu hằng hà sa số kiếp mới chứng được nên đến chất vấn
đức Phật: “Bạch Thế Tôn, Pháp mà đức Thế Tôn tuyên thuyết là ‘thấy
ngay, không qua thời gian, nhìn lại là thấy, ngay nơi thực tại, mỗi người trí
tự chứng’ đó là pháp gì?”. Đức Phật thấy người hỏi đang sân nên
chỉ thẳng cho người ấy thấy ngay: “Sân là Pháp (Dhammo) thấy ngay
(sandiṭṭhiko), không qua thời gian (akāliko), nhìn lại là thấy (Ehipassiko)
ngay nơi thực tại (opanayiko) mỗi người trí tự chứng (paccattaṃ veditabbo
viññūhi)”.
Khi tướng biết vắng lặng tức tri kiến thanh tịnh
thì mới thấy ra tánh biết thường soi sang (pabhassaracitta) chính là Đạo đế,
đầy đủ giới định tuệ, bát chánh đạo, nên vừa thấy phiền não sinh diệt, vừa thấy
Niết-bàn không sinh diệt. Vì vậy vấn đề không phải là sân gì mà là có thấy được
sân sinh diệt hay không. Người rõ biết sân, biết sử dụng sân đúng lúc đúng chỗ
vì lợi ích cho nhiều người thì người đó không còn bị sân chi phối. Như vị lương
y biết dùng độc để trị độc vậy.
Hỏi: Thưa
Thầy “tri kiến thanh tịnh” và tâm “rỗng lặng trong sáng” giống nhau
hay khác nhau? Có ai trải qua những trạng thái ấy nhưng không biết?
- Tri kiến thanh tịnh thuộc tướng biết, tức khi ý
thức nhận biết đối tượng mà không khởi lên khái niệm về đối tượng đó, thì thấy
được thực tướng của pháp. Còn tâm rỗng lặng trong sáng thuộc
tánh biết tức dù qua 6 thức hay không thì vẫn thấy được thực tánh. Tùy
trường hợp, nếu một người sinh ra vốn đã là bậc Tu-đà-hoàn thì họ
sống bình thường nhưng tri kiến thanh tịnh và vì vậy tâm rỗng lặng trong sáng
tự nhiên. Cũng có trường hợp một người trước đây tu thiền định
nay khi hưởng tâm quả của thiền định cảm thấy tâm rất yên lặng, nhưng lại
thích trú trong sự vắng lặng đó thì vẫn rơi vào “trầm không trệ tịch”
không phải là tri kiến thanh tịnh, càng không phải tâm rỗng lặng trong sáng.
Tác giả: Thầy Viên Minh