Đức trong Chân Đế & Đức trong Tục Đế.
Hỏi: Kính xin Thầy chỉ dạy về
chữ "Đức". Người sống như thế nào là người có Đức? Người ta thường
nói tâm lành sinh ra Đức tức là người sống vị tha giúp đỡ người khác
phải không thưa Thầy?
-
Chữ Đức có 2 nghĩa chính, đó là nghĩa theo chân đế và
nghĩa theo tục đế:
• Đức theo tục đế: là những tính tốt, những điều thiện
do con người quy định trong đời sống gia đình, xã hội, vì vậy còn hữu vi, hữu
ngã và tương đối. Như tính hay giúp đỡ người khác, có lòng vị tha, nhẫn
nại, thương yêu, tha thứ v.v… hoặc "nhân, lễ, nghĩa, trí, tín",
“tam tòng”, “tứ đức” trong đạo làm người theo Nho giáo chẳng hạn.
• Đức theo chân đế: là những bản chất tự nhiên, có sẵn
đầy đủ bên trong tự tánh mỗi người. Nó tuỳ cảm mà ứng một cách chính xác, hồn
nhiên, không giả tạo. Chỉ cần tinh tấn chánh niệm tỉnh giác, biết sống tùy
duyên thuận pháp thì tâm liền có đức vô ngã vị tha. Khi tâm thanh tịnh,
trong sáng, trí tuệ tự chiếu thì liền có đầy đủ các đức "Từ
Bi Hỷ Xả". Nói chung, trong tự tánh có đủ trí tuệ, thanh tịnh, từ bi hỷ xả
và nhiều đức tính khác. Chữ Đức này giống như chữ Đức trong Lão Tử Đạo Đức
Kinh.
Hỏi: Thưa Thầy, có câu "Đức năng thắng
số" như vậy phải sống thế nào cho có Đức thì mới vượt qua được
số phận ạ?
- Như đã nói trên, Đức có 2 loại tục đế
và chân đế hay còn gọi là phàm đức và Thánh đức. Cho nên “Đức năng
thắng số” cũng có 2 nghĩa:
• Đức trong thế gian, như đạo làm
người "nhân lễ nghĩa trí tín" của Nho giáo
hoặc "không làm các điều ác, làm các điều
lành" trong Phật giáo v.v... thì có nghĩa là người sống đúng tốt sẽ
vượt qua được số phận xấu.
• Đức xuất thế gian, như đời
sống của các bậc giác ngộ, đã trở về với tâm thanh tịnh trong sáng thì “Đức
năng thắng số có nghĩa là người có Thánh đức không còn bị ràng buộc bởi số phận
nữa. Số phận theo Phật giáo chính là sinh nghiệp (janaka kamma) của mỗi người.
Người giác ngộ không còn lệ thuộc vào sinh nghiệp nữa.
"Vô
Sư Trí" "Bậc Vô Học" và "Chánh kiến"
Hỏi: Thưa Thầy phải sống như
thế nào để được "vô sư trí"?
- Vô sư trí thì ai cũng có sẵn trong tánh biết
nhưng không nhận ra thôi nên đâu cần làm gì để đạt được. Khi sống tinh tấn
chánh niệm tỉnh giác thì thấy thực tánh chân đế, vượt ngoài pháp chế định
tục đế, đó chính là vô sư trí đang hiển dụng. “Vô sư trí” là trí tuệ thấy
Pháp đúng thực tánh chân đế. Còn "Hậu đắc trí" là trí hiểu
biết qua sự khám phá của 6 thức trong phạm trù pháp chế định tục đế.
Hỏi: "vô sư trí" và
"bậc vô học" giống và khác nhau thế nào?
- Thánh có 2 bậc "hữu học
và vô học".
• Bậc hữu học là
bậc chứng ngộ từ Tu-đà-hoàn đến A-na-hàm, vì các vị này chưa giác ngộ
hoàn toàn nên còn tu học nữa mới giác ngộ hoàn toàn được.
• Bậc vô học là bậc đã
hoàn toàn giác ngộ, chứng quả A-la-hán, nên không còn phải tu học nữa. Bậc
vô học không những hiển lộ được Vô sư trí mà còn thêm hậu đắc trí nữa.
Hỏi: Thưa thầy, nên có một
chánh kiến như thế nào để mình không đau khổ buồn bã trước những thành bại,
khen chê… của người đời?
- Nói “có một chánh kiến như thế nào” là
đã xem chánh kiến như một quan niệm rồi! Mà quan niệm là bánh vẽ của tư
tưởng, thuộc về tục đế. Chánh kiến là thấy biết trung thực
chứ không qua quan niệm, thấy sự thật đúng như nó đang là. Có chánh kiến
thì không bị khái niệm thành bại, được mất, khen chê... của người đời
chi phối. Và thấy ra bài học hai mặt của cuộc sống nên không đau
khổ buồn bã nữa.
Tánh biết
của con chó
Hỏi: Khi tri kiến thanh tịnh thì
tánh biết soi chiếu. Còn khi tánh biết bị che lấp thì nó có nhận biết được
những gì tướng biết đang làm không? Kính xin Thầy chỉ dạy.
- Thực tế là tánh biết không bị che lấp, mà lúc đó
do trên “sân khấu tâm” tướng biết đang diễn nên chỉ thấy tướng biết mà không
thấy tánh biết thôi. Thực ra dù khi tướng biết chỉ biết đối tượng mà không
tự biết mình thì tánh biết vẫn biết những gì tướng biết đang diễn. Tánh biết có khả năng rất lạ, khả
năng cảm nhận khi ý thức không biết được.
Thí dụ điển hình nhất là con chó Mitta ở đây, khi
cô ở dưới Ni Viện chuẩn bị lên tắm cho nó, thì ở trên này nó đã
ẩn trốn. Nhưng khi cô chỉ doạ kêu nó đi tắm thì nó chỉ ngoắt đuôi không sợ gì
cả. Nó cảm nhận được ý cô cả khi cô đang ở dưới Ni Viện khá xa. Như vậy không
có gì thần thánh hóa tánh biết, ngay cả con chó cũng có tánh biết mặc dù nó
không có ý thức được khái niệm như ở con người.
Tánh biết là bản chất tự nhiên của chúng sanh.
Chúng sanh đều có tánh biết và tướng biết, nhưng tướng biết của con người phát
triển nhiều hơn rất xa so với con chó, còn tánh biết thì vẫn giống nhau.
Do con người quá phát triển tướng biết nên mất đi khả năng cảm nhận qua
tánh biết, còn con thú ít lăng xăng tính toán qua lý trí
nên nó có khả năng cảm nhận tốt hơn.
Vì
sao Đức Phật cấm giới không có đàn ca múa hát
Hỏi: Kính thưa Sư ông
giải thích chúng con hiểu, vì sao Đức Phật chế định giới
cấm không cho đàn ca múa hát và không cố ý tìm nghe đàn ca
múa hát?
- Bởi vì không phải riêng ca vũ nhạc kịch mà chìm
đắm, say mê vào bất cứ điều gì cũng đều không tốt. Vì khi đó bị phân tâm, quên
mình, không còn trọn vẹn tỉnh thức, sáng suốt biết mình nữa. Dù chìm đắm vào
thiền định, vào an lạc đi nữa cũng vẫn khiến tâm trở nên trì trệ, thụ động hay
dính mắc.
Tuy nhiên, ca vũ nhạc kịch có nhiều thể loại
khác nhau, có loại lành mạnh mà các tôn giáo cũng dùng để giúp tín đồ hướng
thiện. Cho nên đức Phật không cấm mà chỉ chế định điều học để người
tu biết giới hạn nào nên làm và không nên làm. Như vậy, không nên nghe ca vũ
nhạc kịch nào có hại, còn ca vũ nhạc kịch nào lành mạnh thì không sao.
Có những bài hát, những cuốn phim thức tỉnh được
lương tâm con người thì có nghe, có xem cũng tốt. Thí dụ thay vì đọc tụng đoạn
kinh "các pháp hữu vi là vô thường..." thì nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn sáng tác bài hát "Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về
làm cát bụi..." khi nghe người ta dễ cảm xúc mà nhận ra thân phận vô
thường.
Thật ra, những pháp chế định chỉ là tương đối mà
Đức Phật xem như những điều học (sikkhàpada) thiết thực, mang tính gợi ý để
chúng ta nhận ra điều gì nên làm điều gì không nên làm trong những tình huống
khác nhau, để có thể ứng xử trên hoàn cảnh "thực địa" của mỗi người
sao cho đúng tốt thôi. Vì vậy nên căn cứ vào lương tri để giữ giới hơn là
khư khư chấp vào hình thức giới điều.
Hỏi: Thưa Sư ông, xin
Sư ông giải thích, trong Tăng Chi Bộ kinh Đức Phật bảo rằng,
ngay cả việc đọc kinh mà cố ngân nga hay làm cho giọng đọc của mình
hay lên thì điều đó không nên?
- Đúng rồi, thay vì đọc kinh để qua lý kinh
nhận ra sự thật mà giác ngộ thì lại ngâm nga cho hay để ru ngủ thì không tốt.
Tuy nhiên có những trường hợp tâm đang bất an ngâm một bài kệ, như kệ tâm từ,
kệ vô thường chẳng hạn, thì tâm lắng dịu lại, đó chưa phải là pháp tu rốt ráo
nhưng cũng là pháp đối trị khi cần.
Nói chung đừng cứng nhắc, khi Đức Phật nói ra điều
gì là Ngài chỉ nói cho mỗi một trường hợp nhất định nào đó, chẳng hạn như nói
cho người đang đọc tụng ê a nghe cho hay mà quên mình, thất niệm, giống như người
nghe hát điệu chầu văn mà chìm vào trạng thái đồng bóng, thì Ngài mới nói để
nhắc nhở, thức tỉnh, hơn là cấm đoán. Mục đích giác ngộ là thấy ra phạm trù
tương đối để không bị mắc kẹt hai chiều, từ đó thấy ra Pháp, thấy ra Sự Thật,
thấy ra tâm mình, thấy ra cái gì đưa đến phiền não khổ đau, cái gì không đưa
đến phiền não khổ đau, mới là chính. Tất cả pháp chế định đều mang tính tương
đối nhằm đối trị tuỳ trường hợp mà thôi.
Có lần vua trời Sakka (Đế-thích) muốn đến đảnh lễ
vấn đạo đức Phật nhưng thấy Ngài đang ngồi tĩnh lặng nên không dám lại gần, vua
Sakka bèn nhờ một Gandhabba (Càn-thát-bà) đến ngồi gần chỗ đức Phật và bắt đầu
đàn hát. Khi khúc nhạc vừa dứt đức Phật hỏi:" Này Pañcasikhā! Âm
thanh những sợi dây đàn của ngươi hòa điệu tuyệt vời với ca từ, với giọng hát
của ngươi. Đúng là nhạc sĩ trưởng tài hoa của thiên đình! Nhưng mà này
Pañcasikhā! Ngươi sáng tác khúc ca ấy lúc nào?"
Pañcasikhā thưa:" Con sáng tác khúc ca
ấy vào thuở ngài thành đạo dưới cội bồ-đề, nghĩa là vừa mới đây thôi... Ca từ
và nhạc điệu vừa rồi là tiếng lòng vi diệu nhất của con..., bạch đức Thế
Tôn!". Như vậy,
nghe nhạc không phải là vấn đề mà chủ yếu là nghe với tâm thái thế nào mới cần
tự giác.