Bài này viết về ba bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng: bài kệ Kiến Tánh, bài kệ Vô Tướng trong Phẩm thứ ba của Kinh Pháp Bảo Đàn, và bài kệ thị tịch (kệ làm trước giờ lâm chung gọi là kệ thị tịch).
Lục Tổ Huệ Năng (638-713) là vị tổ thứ sáu của Thiền Tông Trung Quốc. Một ngày nọ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ở chùa Đông Thiền huyện Hoàng Mai xứ Kỳ Châu bảo các đệ tử làm một bài kệ kiến giải chân tâm để chọn người truyền pháp và truyền y bát cho làm tổ đời thứ sáu. Nhân dịp này Thượng Tọa Thần Tú là vị giáo thọ dạy giáo pháp cho môn đồ trong chùa làm bài kệ sau đây:
Thân thị Bồ đề thọ,
Tâm như minh cảnh đài,
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhá trần ai.
Bản dịch của Tô Quế:
Thân thiệt Bồ đề thọ,
Lòng như minh cảnh đài,
Hằng hằng lau phủi sạch,
Chớ để vướng trần ai.
Khi ấy ngoài Ngũ Tổ ra chỉ có ngài Huệ Năng (lúc đó còn là một cư sĩ làm công việc giã gạo ở nhà bếp sau chùa) hiểu rằng bài kệ ấy chưa thấy Bổn Tánh. Lành thay chính bài kệ ấy lại làm xúc tác cho Huệ Năng ứng khẩu đọc bài kệ Kiến Tánh, nhờ quan Biệt Giá Trương Nhật Dụng viết giùm lên tường như sau:
Kệ Kiến Tánh
Bồ đề bổn vô thọ,
Minh cảnh diệc phi đài,
Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ nhá trần ai?
Bản dịch của Tô Quế:
Bồ đề đâu phải thọ,
Minh cảnh có chi đài,
Xưa nay không một vật,
Nào chỗ vướng trần ai?
Nhờ bài kệ Kiến tánh này mà Huệ Năng được Ngũ Tổ truyền y bát cho làm Lục Tổ.
***
Theo Lục Tổ người học Tọa Thiền trước tiên phải thấy gốc tánh thanh tịnh, không bàn chuyện thị phi. Ngài còn chỉ rõ tập trụ tâm quán tịnh ngồi mãi không nằm để mong cầu đạo giác ngộ là sai lầm (3)...
... Lục Tổ còn dạy muốn tu hành thì ở nhà tu cũng đặng, chẳng cần ở chùa. Người tu tại gia cũng có thể theo lời dạy của Lục Tổ dùng tánh mình mà độ lấy mình. Sau đây là kệ Vô Tướng ngài làm để đại chúng y theo đó mà tu tại gia trong Phẩm Quyết Nghi (Phẩm thứ ba) của Kinh Pháp Bảo Đàn theo dịch giả Tô Quế:
Kệ Vô Tướng
Lòng thẳng lo chi giữ giới,
Nết ngay nào dụng tu thiền.
Ơn kia khá nuôi cha mẹ,
Nghĩa ấy hãy thương dưới trên
Nhường thì lớn nhỏ hoà thuận,
Nhịn lại các dữ dẹp yên.
Bằng biết cưa cây lấy lửa,
Bùn lầy mà trổ bông sen.
Đắng miệng mới là lương dược,
Trái tai hẳn thiệt trung nghiên.
Chừa lỗi sanh ra trí huệ,
Che chở lòng dạ đâu hiền.
Hằng ngày mở lòng rộng lượng,
Nên đạo đâu phải thí tiền.
Bồ đề tự lòng tìm thấy,
Nhọc chi ngoài tánh cầu huyền. (*)
Nghe giảng tu hành theo đó,
Thiên đường mắt thấy hiện tiền.
***
Đây là chủ trương tu tâm dưỡng tánh để giác ngộ chứ không mê tín không cuồng tín. Hồi quang nội chiếu để phá những vọng căn vọng trần thì thấy chỗ mật nhiệm ấy là Niết Bàn diệu tâm.
Tiếp theo đây xin bàn tới bài kệ thị tịch Lục Tổ làm khi về thăm chùa Quốc Ân ở Tân Châu là quê hương của ngài trước khi viên tịch ở đó.
Kệ Thị Tịch
Ngột ngột bất tu thiện
Đằng đằng bất tạo ác
Tịch tịch đoạn kiến văn
Đảng đảng tâm vô trước (7).
Có thể dịch "bất tu thiện" là "không chấp thiện" theo tinh thần phá chấp ở phẩm "Trang Nghiêm Tịnh Độ" trong kinh Kim Cang. Tôi tham khảo Từ Điển Thiều Chửu và xin tạm dịch lại bài kệ này như sau:
Kệ Thị Tịch
Ngơ ngơ không chấp thiện
Lâng lâng không tạo ác
Lặng lặng xả thấy nghe
Thênh thênh chẳng bận lòng.
Tài liệu tham khảo:
1) Kinh Pháp Bảo Đàn bản dịch của Diên Sanh Cư Sĩ Tô Quế. Ấn tống ở Hoa Kỳ.
2) Lục Tổ Đàn Kinh Hòa Thượng Tuyên Hóa Lược Giảng. Bản Việt Ngữ in lần thứ nhất 2004.
3) Pháp Bửu Đàn Kinh Huệ-Năng Lục-Tổ của Hòa Thượng Minh Trực Thiền Sư. Phật Giáo Hòa Hảo San Jose ấn tống 1987.
4) Từ Điển Thiều Chửu. Nguồn từ Internet.
5) Kinh Kim Cang Dịch & Giảng của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa. Chùa Khánh Anh ở Pháp ấn tống.
6) Tu Tâm Dưỡng Tánh của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa. Trung Tâm Phật Giáo Hayward ấn hành 2001.
Quảng Trí Nguyễn Bỉnh Quân.
Lượt trích "Ba bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng"
Theo http://thuvienhoasen.org
Ảnh: Nhục thân của thiền sư Huệ Năng đặt tại chùa Hoa Nam huyện Thiều Quang, tỉnh Quảng ĐôngTrung Quốc(ở đây cũng lưu giữ nhục thân của sư Hám Sơn và Đan Điền)