Một ngày nọ, nghe nói một vị bạn đồng sư là Hòa Thượng Hội có đến yết kiến thiền sư Nam Tuyền, sư sai một vị tăng đến hỏi rằng:
- Hòa thượng sau khi thấy Nam Tuyền rồi thế nào?
Hòa thượng Hội lặng thinh
Tăng hỏi:
- Hòa thượng trước khi thấy Nam Tuyền thì sao?
Hòa thượng Hội đáp:
- Không thể lại có cái riêng.
Vị tăng về thuật lại cho Sư nghe. Sư làm một bài kệ như sau:
Bách trượng can đầu bất động nhân
Tuy nhiên đắc pháp vị vi chân
Bách trượng can đầu tu tấn bộ
Thập phương thế giới thị toàn thân.
Dịch:
Đầu sào trăm thước vẫn đứng yên
Tuy ngộ nhưng chưa rõ lý chân
Đầu sào trăm thước thêm một bước
Mười phương thế giới hiện toàn thân
Bài kệ này sau đã trở thành một công án để những người hậu học tham cứu. Thế nào là đầu sào trăm thước, và thế nào là tiến thêm một bước?
Theo tượng hình của câu kệ này, đầu sào trăm thước được coi như đã đạt đến đỉnh, đạt đến chỗ tột cùng. Thế nhưng đó vẫn chưa phải là rốt ráo, còn phải “tiến thêm một bước”, có nghĩa là phải rời chỗ trụ vững chắc ở đỉnh cao chót vót đó và nhẩy vào hư không thì mới thấy được “thế giới hiện toàn chân”. Đang từ chỗ đứng vững chắc mà nhẩy vào hư không thì có khác gì đi vào chỗ chết. Đó là điều lắt léo khiến cho bài kệ này đã trở thành một công án để tham cứu.
Tình cờ, trong một cơ duyên nào đó, người viết bài này gặp được một quyển sách nhỏ của soạn giả “Duyên Khởi” có nhắc đến vấn đề này. Theo soạn giả Duyên Khởi, Thiền có nhiều thứ, có nhiều cách thực tập khác nhau, nhưng nói chung chỉ chia ra làm hai đại loại là “Thiền trực tiếp” và “Thiền gián tiếp”. “Thiền gián tiếp” được gọi là giáo môn, chủ về quán tưởng để đạt đến cảnh giới thanh tịnh vô vi, ở trong ý thức con người, thuộc về tiệm giáo. Thiền trực tiếp được gọi là Tông môn, chủ về kiến tánh, lìa tâm ý thức, thuộc về Viên đốn giáo . Đó cũng là thiền từ đời Đức Phật tổ Thích Ca truyền lại qua Ma Ha Ca Diếp cho đến đời Lục Tổ Huệ Năng, còn được gọi là Tổ sư Thiền.
Tu tập Tổ sư Thiền điều chính yếu phải làm là “tham cứu thoại đầu”. Tham cứu có nghĩa là hướng về nội tại bản tâm để tìm hiểu, khác với nghiên cứu là hướng ra ngoài để thu thập tìm kiếm. “Thoại đầu” là gì? Chỗ niệm chưa khởi hoặc lúc trước khi có câu nói ra thì đó gọi là “thoại đầu”. Khi đã nói ra rồi, hoặc niệm đã khởi lên rồi dù chưa nói ra, đều gọi là “thoại vĩ”. “Thoại” là “nói chuyện”, “đầu” là ở trước, còn “vĩ” là đuôi, có nghĩa là ở sau.
Nơi chưa có niệm khởi hay “thoại đầu” là trống rỗng như hư không, yên lặng như mặt hồ không gợn sóng, lại chính là nguồn gốc sanh tử của chúng ta. Tu thiền theo “ngoại đạo”, tức không phải là Phật đạo chân chính, đến được chỗ này là bị mê trụ trong cảnh giới thanh tịnh đó, không có cách gì vượt thoát được. Thiền tông gọi chỗ này là chỗ “Đầu sào trăm thước”. Hành giả tham thiền quyết phải vượt ra khỏi cảnh giới ấy, vì đó là hang ổ của vô minh – chỉ cần bước thêm bước nữa thì hang ổ vô minh đó sẽ bị phá vỡ, ngộ nhập được tánh Phật không có biên giới trong ngoài. Tham thiền tuy chưa đạt đến thoại đầu, cũng không phải ở nơi thoại vĩ, mà ở giữa đoạn đường từ thoại vĩ đến thoại đầu, thiền tông tạm xưng là “tham cứu thoại đầu”.
Muốn đến được chỗ “đầu sào trăm thước” và vượt qua khỏi chỗ đó, phương tiện thù thắng nhất là đề “thoại đầu”, có nghĩa là suy ngẫm trong tâm một câu hỏi không có lời giải đáp, khiến khởi lên một “nghi tình” hay một khối nghi trong tâm. Ví dụ như câu: “Thế nào là bộ mặt bản lai của ta khi cha mẹ chưa sinh ra ta?” hoặc: “Thế nào là cánh cổng không có cổng (vô môn quan)?” v.v… Hành giả công phu tham cứu thoại đầu không có hạn định thời gian và không gian, lúc nào cũng nghiền ngẫm câu nói này cho đến khi nhập tâm, đi đứng nằm ngồi đều không rời câu thoại đầu ấy, một lúc nào đó khối nghi sẽ bùng vỡ, mọi sự sẽ đột nhiên sáng tỏ, chân lý bỗng hiện tiền không qua lời nói hoặc suy luận.
Truyền thống tham khán thoại đầu hay công án điển hình nhất là ở tông Lâm Tế. Ở Nhật Bản, Lâm Tế là một trong hai tông phái thiền lớn mạnh nhất là Lâm Tế và Tào Động. Tông Tào Động khởi đầu cũng có chủ trương tham khán công án, sau này có lẽ để thích ứng với căn cơ của các hành giả, nên đã bỏ công phu này. Chúng ta hãy nghe một cách diễn giải khác về “Đầu sào trăm thước” của thiền sư Shinryu Suzuki, một thiền sư Nhật Bản nổi tiếng ở Mỹ thuộc phái Tào Động như sau:
Phật tánh không phải chỉ nhờ công phu tu tập rồi mới hiển lộ được, mà tất cả những gì ta thấy trước mắt đều là những biểu lộ của Phật tánh . Đi, đứng, nằm ngồi hay những cử động, nói năng, suy nghĩ đều là do Phật tánh ứng vào. Tánh chỉ có một, nhưng những biểu hiện của tánh là khác nhau. Người ta thường có quan niệm sai lầm cho chúng là riêng biệt và đặt cho chúng những cái tên riêng biệt. Nói “Vô minh” hay “giác ngộ” tuy tên gọi khác nhau nhưng đều là những biểu hiện của Phật tánh, ngoài tánh Phật không thể tìm thấy ở đâu được. Chúng sanh mê muội thì thấy khác nhau, nhưng Phật thì thấy đó là một.
Trong “Ngộ Tánh Luận”, tổ Đạt Ma cũng có nói về Phật tánh như sau:
Tánh phật không ở ngoài tánh của tham sân si. Kinh nói: "Chư phật từ trước tới nay vẫn thường ở nơi tam độc và từ đó nuôi dưỡng tịnh pháp cho lớn mạnh mà trở thành Phật, Thế tôn."
Và: Phật xem vô minh là cha, tham ái là mẹ.
Nói ví dụ, “tham dục” cũng chính là Phật tánh, nhưng được đặt tên là tham dục. Khi chúng ta tọa thiền, lòng tham dục đó biến đi đâu? Chúng ta thường nghĩ rằng phải tiêu diệt lòng tham dục để cho tánh Phật được hiển lộ, nhưng lòng tham dục ấy sẽ bị gạt bỏ về đâu? Nghĩ rằng tham dục là một điều gì có thể gạt bỏ hay trừ khử đi được là một lối suy nghĩ sai lầm. Tâm thức chúng ta không thể chia ra từng phần mà loại bỏ đi phần nào chúng ta không muốn được.
Khi nói đến “đầu sào trăm thước”, ta thường nghĩ rằng đó là điểm cuối cùng của quá trình công phu trước khi giác ngộ. Nếu dừng lại ở đấy thì sẽ không giác ngộ được, phải nhẩy ra khỏi chỗ đầu sào ấy thì công phu mới được viên mãn. Khi ta còn muốn loại bỏ những tư tưởng tham dục ra khỏi tâm thức, tức là ta vẫn còn đứng ở chỗ đầu sào. Nhưng thực ra, không có chỗ nào là chỗ đầu sào cả. Tâm thức của chúng ta không như cái sào mà có chỗ dừng lại, mà luôn luôn vận hành, luân chuyển vô tận. Khi có một kinh nghiệm chứng ngộ nào đó, ta có thể muốn dừng lại ở đó và quan sát mọi việc như ở trên đỉnh cao của đầu sào, nhưng trên thực tế không có gì là dừng lại, tất cả đều không ngừng biến chuyển và thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. Khi nghĩ rằng “ta đã đến đỉnh” là lại phải đối phó với vấn đề có nên nhẩy xuống hay không, nhưng điều đó là không thể được, vì chỗ đầu sào kia sẽ tiếp tục biến chuyển mãi mãi.
Như vậy, hãy quên đi chỗ đứng đầu sào, quên đi quá khứ và tương lai, mà chỉ cần sống thực ngay trong giây phút hiện tại, và từ giây phút hiện tại đó mà luân lưu nhẩy qua giây phút hiện tại khác, không dừng lại ở đâu cả. Thiền sư Suzuki đã cho một thí dụ như sau:
Khi sửa soạn xong bữa điểm tâm, bà vợ ông thường đập hai miếng gỗ vào nhau (như tiếng mõ) để gọi ông ra ăn sáng. Nếu ông không trả lời, bà sẽ tiếp tục đập cho đến khi ông cảm thấy khó chịu. Vấn đề rất đơn giản là ông chỉ cần trả lời “Hai” (Yes) thì bà sẽ ngừng đánh mõ ngay. Nhưng ông lại nghĩ là ông đang làm một điều gì quan trọng nên chưa cần đi ra ăn sáng vội. Khi ông nghĩ ông đang làm một việc quan trọng và không cần trả lời bà, có nghĩa là ông đang ở trên “đầu sào trăm thước” mà trụ vào nơi đó. Nếu ông trả lời “Yes” tức là ông đã nhẩy ra khỏi chỗ đầu sào trăm thước kia mà luân chuyển được từ giây phút này qua giây phút khác trong hiện tại, và mọi vấn đề sẽ được giải quyết tốt đẹp.
Đó cũng có nghĩa là tâm “Vô Trụ” qua sự thấy biết “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc” như kinh Kim Cương nói vậy.
Thiền sư Đạo Nguyên đã nói như sau: “Học Phật tức là học về chính mình. Học về chính mình tức là quên đi chính mình trong từng giây phút”.
Hai cách diễn giải trên đây về “Đầu sào trăm thước” cho ta thấy tuy cách diễn giải khác nhau, nhưng có chung một điểm là trong công phu tu tập “không có chỗ nào để trụ lại” cả.
Trong “Chứng Đạo Ca”, Tổ Huyền Giác đã nói như sau:
“Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân
Bất trừ vọng tưởng, bất cầu chân
Vô minh thật tánh tức Phật tánh
Huyễn hóa không thân tức Pháp thân”Đó là cái nhìn của bậc giác ngộ đã thấy được tánh bình đẳng trong tất cả mọi pháp. Người đã đến được chỗ “Thoại đầu” hay cảnh giới thanh tịnh của tâm và trụ lại ở đó là vẫn còn vướng nơi tâm, như người ở chỗ đầu sào còn thấy mình ở trên cao chót vót nhìn xuống phía dưới và đứng vững bất động ở đó mà không ra khỏi được. Ngay khi nghĩ mình đã ở đầu sào là đã kẹt nơi đó, còn phân biệt giữa động và tịnh, ta và người, ngoài và trong. Chỉ khi nào cái tâm phân biệt ấy tan biến đi, những chấp tướng của ta và người, ngoài và trong của cái ngã mê muội đã chết đi, đã nhẩy vào hư không vô tận để hòa nhập với Pháp tánh hiển hiện mọi nơi, thì lúc đó “thập phương thế giới mới hiện toàn chân” được.
Như lời kinh nói: “Lìa hết mọi tướng ấy gọi là chư Phật” vậy.
Chân Thường
Tuy nhiên đắc pháp vị vi chân
Bách trượng can đầu tu tấn bộ
Thập phương thế giới thị toàn thân.
Dịch:
Đầu sào trăm thước vẫn đứng yên
Tuy ngộ nhưng chưa rõ lý chân
Đầu sào trăm thước thêm một bước
Mười phương thế giới hiện toàn thân
Bài kệ này sau đã trở thành một công án để những người hậu học tham cứu. Thế nào là đầu sào trăm thước, và thế nào là tiến thêm một bước?
Theo tượng hình của câu kệ này, đầu sào trăm thước được coi như đã đạt đến đỉnh, đạt đến chỗ tột cùng. Thế nhưng đó vẫn chưa phải là rốt ráo, còn phải “tiến thêm một bước”, có nghĩa là phải rời chỗ trụ vững chắc ở đỉnh cao chót vót đó và nhẩy vào hư không thì mới thấy được “thế giới hiện toàn chân”. Đang từ chỗ đứng vững chắc mà nhẩy vào hư không thì có khác gì đi vào chỗ chết. Đó là điều lắt léo khiến cho bài kệ này đã trở thành một công án để tham cứu.
Tình cờ, trong một cơ duyên nào đó, người viết bài này gặp được một quyển sách nhỏ của soạn giả “Duyên Khởi” có nhắc đến vấn đề này. Theo soạn giả Duyên Khởi, Thiền có nhiều thứ, có nhiều cách thực tập khác nhau, nhưng nói chung chỉ chia ra làm hai đại loại là “Thiền trực tiếp” và “Thiền gián tiếp”. “Thiền gián tiếp” được gọi là giáo môn, chủ về quán tưởng để đạt đến cảnh giới thanh tịnh vô vi, ở trong ý thức con người, thuộc về tiệm giáo. Thiền trực tiếp được gọi là Tông môn, chủ về kiến tánh, lìa tâm ý thức, thuộc về Viên đốn giáo . Đó cũng là thiền từ đời Đức Phật tổ Thích Ca truyền lại qua Ma Ha Ca Diếp cho đến đời Lục Tổ Huệ Năng, còn được gọi là Tổ sư Thiền.
Tu tập Tổ sư Thiền điều chính yếu phải làm là “tham cứu thoại đầu”. Tham cứu có nghĩa là hướng về nội tại bản tâm để tìm hiểu, khác với nghiên cứu là hướng ra ngoài để thu thập tìm kiếm. “Thoại đầu” là gì? Chỗ niệm chưa khởi hoặc lúc trước khi có câu nói ra thì đó gọi là “thoại đầu”. Khi đã nói ra rồi, hoặc niệm đã khởi lên rồi dù chưa nói ra, đều gọi là “thoại vĩ”. “Thoại” là “nói chuyện”, “đầu” là ở trước, còn “vĩ” là đuôi, có nghĩa là ở sau.
Nơi chưa có niệm khởi hay “thoại đầu” là trống rỗng như hư không, yên lặng như mặt hồ không gợn sóng, lại chính là nguồn gốc sanh tử của chúng ta. Tu thiền theo “ngoại đạo”, tức không phải là Phật đạo chân chính, đến được chỗ này là bị mê trụ trong cảnh giới thanh tịnh đó, không có cách gì vượt thoát được. Thiền tông gọi chỗ này là chỗ “Đầu sào trăm thước”. Hành giả tham thiền quyết phải vượt ra khỏi cảnh giới ấy, vì đó là hang ổ của vô minh – chỉ cần bước thêm bước nữa thì hang ổ vô minh đó sẽ bị phá vỡ, ngộ nhập được tánh Phật không có biên giới trong ngoài. Tham thiền tuy chưa đạt đến thoại đầu, cũng không phải ở nơi thoại vĩ, mà ở giữa đoạn đường từ thoại vĩ đến thoại đầu, thiền tông tạm xưng là “tham cứu thoại đầu”.
Muốn đến được chỗ “đầu sào trăm thước” và vượt qua khỏi chỗ đó, phương tiện thù thắng nhất là đề “thoại đầu”, có nghĩa là suy ngẫm trong tâm một câu hỏi không có lời giải đáp, khiến khởi lên một “nghi tình” hay một khối nghi trong tâm. Ví dụ như câu: “Thế nào là bộ mặt bản lai của ta khi cha mẹ chưa sinh ra ta?” hoặc: “Thế nào là cánh cổng không có cổng (vô môn quan)?” v.v… Hành giả công phu tham cứu thoại đầu không có hạn định thời gian và không gian, lúc nào cũng nghiền ngẫm câu nói này cho đến khi nhập tâm, đi đứng nằm ngồi đều không rời câu thoại đầu ấy, một lúc nào đó khối nghi sẽ bùng vỡ, mọi sự sẽ đột nhiên sáng tỏ, chân lý bỗng hiện tiền không qua lời nói hoặc suy luận.
Truyền thống tham khán thoại đầu hay công án điển hình nhất là ở tông Lâm Tế. Ở Nhật Bản, Lâm Tế là một trong hai tông phái thiền lớn mạnh nhất là Lâm Tế và Tào Động. Tông Tào Động khởi đầu cũng có chủ trương tham khán công án, sau này có lẽ để thích ứng với căn cơ của các hành giả, nên đã bỏ công phu này. Chúng ta hãy nghe một cách diễn giải khác về “Đầu sào trăm thước” của thiền sư Shinryu Suzuki, một thiền sư Nhật Bản nổi tiếng ở Mỹ thuộc phái Tào Động như sau:
Phật tánh không phải chỉ nhờ công phu tu tập rồi mới hiển lộ được, mà tất cả những gì ta thấy trước mắt đều là những biểu lộ của Phật tánh . Đi, đứng, nằm ngồi hay những cử động, nói năng, suy nghĩ đều là do Phật tánh ứng vào. Tánh chỉ có một, nhưng những biểu hiện của tánh là khác nhau. Người ta thường có quan niệm sai lầm cho chúng là riêng biệt và đặt cho chúng những cái tên riêng biệt. Nói “Vô minh” hay “giác ngộ” tuy tên gọi khác nhau nhưng đều là những biểu hiện của Phật tánh, ngoài tánh Phật không thể tìm thấy ở đâu được. Chúng sanh mê muội thì thấy khác nhau, nhưng Phật thì thấy đó là một.
Trong “Ngộ Tánh Luận”, tổ Đạt Ma cũng có nói về Phật tánh như sau:
Tánh phật không ở ngoài tánh của tham sân si. Kinh nói: "Chư phật từ trước tới nay vẫn thường ở nơi tam độc và từ đó nuôi dưỡng tịnh pháp cho lớn mạnh mà trở thành Phật, Thế tôn."
Và: Phật xem vô minh là cha, tham ái là mẹ.
Nói ví dụ, “tham dục” cũng chính là Phật tánh, nhưng được đặt tên là tham dục. Khi chúng ta tọa thiền, lòng tham dục đó biến đi đâu? Chúng ta thường nghĩ rằng phải tiêu diệt lòng tham dục để cho tánh Phật được hiển lộ, nhưng lòng tham dục ấy sẽ bị gạt bỏ về đâu? Nghĩ rằng tham dục là một điều gì có thể gạt bỏ hay trừ khử đi được là một lối suy nghĩ sai lầm. Tâm thức chúng ta không thể chia ra từng phần mà loại bỏ đi phần nào chúng ta không muốn được.
Khi nói đến “đầu sào trăm thước”, ta thường nghĩ rằng đó là điểm cuối cùng của quá trình công phu trước khi giác ngộ. Nếu dừng lại ở đấy thì sẽ không giác ngộ được, phải nhẩy ra khỏi chỗ đầu sào ấy thì công phu mới được viên mãn. Khi ta còn muốn loại bỏ những tư tưởng tham dục ra khỏi tâm thức, tức là ta vẫn còn đứng ở chỗ đầu sào. Nhưng thực ra, không có chỗ nào là chỗ đầu sào cả. Tâm thức của chúng ta không như cái sào mà có chỗ dừng lại, mà luôn luôn vận hành, luân chuyển vô tận. Khi có một kinh nghiệm chứng ngộ nào đó, ta có thể muốn dừng lại ở đó và quan sát mọi việc như ở trên đỉnh cao của đầu sào, nhưng trên thực tế không có gì là dừng lại, tất cả đều không ngừng biến chuyển và thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. Khi nghĩ rằng “ta đã đến đỉnh” là lại phải đối phó với vấn đề có nên nhẩy xuống hay không, nhưng điều đó là không thể được, vì chỗ đầu sào kia sẽ tiếp tục biến chuyển mãi mãi.
Như vậy, hãy quên đi chỗ đứng đầu sào, quên đi quá khứ và tương lai, mà chỉ cần sống thực ngay trong giây phút hiện tại, và từ giây phút hiện tại đó mà luân lưu nhẩy qua giây phút hiện tại khác, không dừng lại ở đâu cả. Thiền sư Suzuki đã cho một thí dụ như sau:
Khi sửa soạn xong bữa điểm tâm, bà vợ ông thường đập hai miếng gỗ vào nhau (như tiếng mõ) để gọi ông ra ăn sáng. Nếu ông không trả lời, bà sẽ tiếp tục đập cho đến khi ông cảm thấy khó chịu. Vấn đề rất đơn giản là ông chỉ cần trả lời “Hai” (Yes) thì bà sẽ ngừng đánh mõ ngay. Nhưng ông lại nghĩ là ông đang làm một điều gì quan trọng nên chưa cần đi ra ăn sáng vội. Khi ông nghĩ ông đang làm một việc quan trọng và không cần trả lời bà, có nghĩa là ông đang ở trên “đầu sào trăm thước” mà trụ vào nơi đó. Nếu ông trả lời “Yes” tức là ông đã nhẩy ra khỏi chỗ đầu sào trăm thước kia mà luân chuyển được từ giây phút này qua giây phút khác trong hiện tại, và mọi vấn đề sẽ được giải quyết tốt đẹp.
Đó cũng có nghĩa là tâm “Vô Trụ” qua sự thấy biết “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc” như kinh Kim Cương nói vậy.
Thiền sư Đạo Nguyên đã nói như sau: “Học Phật tức là học về chính mình. Học về chính mình tức là quên đi chính mình trong từng giây phút”.
Hai cách diễn giải trên đây về “Đầu sào trăm thước” cho ta thấy tuy cách diễn giải khác nhau, nhưng có chung một điểm là trong công phu tu tập “không có chỗ nào để trụ lại” cả.
Trong “Chứng Đạo Ca”, Tổ Huyền Giác đã nói như sau:
“Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân
Bất trừ vọng tưởng, bất cầu chân
Vô minh thật tánh tức Phật tánh
Huyễn hóa không thân tức Pháp thân”Đó là cái nhìn của bậc giác ngộ đã thấy được tánh bình đẳng trong tất cả mọi pháp. Người đã đến được chỗ “Thoại đầu” hay cảnh giới thanh tịnh của tâm và trụ lại ở đó là vẫn còn vướng nơi tâm, như người ở chỗ đầu sào còn thấy mình ở trên cao chót vót nhìn xuống phía dưới và đứng vững bất động ở đó mà không ra khỏi được. Ngay khi nghĩ mình đã ở đầu sào là đã kẹt nơi đó, còn phân biệt giữa động và tịnh, ta và người, ngoài và trong. Chỉ khi nào cái tâm phân biệt ấy tan biến đi, những chấp tướng của ta và người, ngoài và trong của cái ngã mê muội đã chết đi, đã nhẩy vào hư không vô tận để hòa nhập với Pháp tánh hiển hiện mọi nơi, thì lúc đó “thập phương thế giới mới hiện toàn chân” được.
Như lời kinh nói: “Lìa hết mọi tướng ấy gọi là chư Phật” vậy.
Chân Thường
Theo: ngocbao.org