Kinh Tứ Niệm Xứ trong Trung bộ kinh 10 và Trường bộ kinh 22 là hai bản kinh thường được đọc. “Con đường duy nhất đưa đến sự thanh tịnh cho chúng sanh, đoạn tận khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn” còn được lập lại lần cuối cùng trong kinh Đại-bát Niết-bàn trước khi Thế Tôn nhập diệt.
“ Này Ananda, thế nào là vị Tỷ-kheo hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác?
“Này Ananda, ở đời, vị Tỷ-kheo, đối với thân, quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời; đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời. Này Ananda, như vậy vị Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.” [1]
Qua lời kinh này, chúng ta dễ dàng nhận thấy “ánh sáng ngọn đèn” và “chánh pháp” là cùng một ý nghĩa: Ánh sáng của chân lý. Điều đó cũng đồng nghĩa là mỗi người đều có khả năng thắp đèn để thấy được chân lý ngay nơi chính mình. Khả năng tự mình là ánh sáng cho chính mình, còn được gọi là phật tính, ai cũng có sẵn, nhưng phật tính này cũng giống số zero, lớn nhỏ tùy nơi bụi trong mắt ít hay nhiều. Người thì bé như hạt bụi chìm trong bóng tối, người như ngọn đèn, và cũng có người như mặt trời, mặt trăng.
Khi đã nhận ra mình có ngọn đèn, có khả năng thắp đèn thì việc còn lại chỉ là giữ cho ngọn đèn cháy mãi. Con đường thiền chính là hành trình điều chỉnh ngọn đèn này mỗi ngày một sáng hơn để bóng tối mỗi ngày một giảm hơn.
(Dù không cân thiết nhưng cũng xin mở ngoặc nói thêm về hai từ “phật tính”, ở đây “phật” được viết thường, không phải viết hoa, với ý nghĩa là tiềm năng giác ngộ, khả năng tỉnh thức)
Đọc toàn bộ bài kinh Tứ Niệm Xứ, từ nổi bật và quan trọng nhất là Biết, có biết có, không có biết không có. Cái biết giống như phần nền vô tướng ẩn sâu để các pháp hữu vi “vô thường, anicca, khổ, dukkha, không phải là tôi, không phải của tôi, anatta” nổi lên bề mặt và được cái biết này quan sát.
Cái biết này còn được gọi là Cái biết không sinh không diệt và đối tượng được biết là các pháp sinh diệt của thân, thọ, tâm, pháp. Nói như thiền sư Achan Chah:
“Tất cả mọi suy nghĩ chỉ là sự dao động của tâm, và cái biết thì không sinh và không diệt. Cái mà chúng ta gọi là tâm – tất cả những sự dao động – chỉ là cái tâm thông thường. Nó không phải là cái tâm thật. Cái tâm thật chỉ ở đó, nó không sinh và không diệt.” [2]
Cốt lõi của thiền quán là nhận ra được cái tâm thật hay cái biết không sinh không diệt.
...
...
Thiền sư Ajahn Brahm thì ... cho rằng: “Khi Đức Phật dạy “ngay trước mặt”, Ngài không có ý muốn nói đặt sự chú ý vào đầu chóp mũi hay môi trên của bạn. Đặt cái gì trước mặt có nghĩa là xem việc ấy là quan trọng. Vì vậy, lời hướng dẫn trước tiên là thiết lập chánh niệm bằng cách xem đó là viêc ưu tiên” (Buddha said “in front of you” he didn’t mean putting attention on the tip of your nose, or on your upper lip, or some place in front of your eyes. To put something in front means to make it important. So this preliminary instruction is to establish mindfulness by giving it priority) [4]
Và cách lý giải này của Ajahn Brahm phù hợp với những ý nghĩa tổng quát của cụm từ “parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā” trong tự điển Pali-Anh: 1. “Set up his memory in front” (ưu tiên cho việc thiết lập sự nhớ) và 2. “to set one’s mindfulness alert” (thiết lập chánh niệm một cách tỉnh thức). [5]
Và khi tu tập “tâm không chấp thủ” hay “tâm vô trụ” , việc quan trọng ưu tiên của người hành thiền khi “trú niệm trước mặt” phải là an trú vững vàng vào ‘cái biết không sinh không diệt’ hay cái ‘tâm ông chủ’ đã có sẵn và đã được nhận ra. Không biết hiểu theo cách này có đúng với tinh thần “an trú không” và “vô tướng tâm định” thuở xưa của Phật không?
Nếu mở rộng hơn, phải chăng có thể nói “mặt” ở đây là “gương mặt nguyên thủy” hay “bản lai diện mục”? Hay nếu thay “trước mặt” bằng “trước mắt” thì mắt ở đây chính là “pháp nhãn” của chân tâm?
Xin dẫn thêm lời của thiền sư Achan Chah:
“Theo như tôi thấy, tâm như là một điểm trung tâm của vũ trụ, còn những trạng thái của tâm thì như những người khách tới ở đó trong một thời gian ngắn hoặc dài. Cần tìm hiểu những người khách đó cho kỹ. Làm quen với những hình ảnh họ gợi ra, những câu chuyện họ bày ra để lôi kéo mình theo họ. Nhưng đừng rời khỏi cái ghế mình đang ngồi, chỉ có một cái ghế thôi. Nếu mình tiếp tục ngồi chắc chắn và –không rời ghế, để tiếp đón những người khách đó khi họ đến, mà vẫn giữ vững sự thấy biết để đổi tâm mình thành 'người giác ngộ', người tỉnh giác, thì những người khách đó sẽ không còn tới nữa.” [6]
Hai đoạn pháp thoại của thiền sư Achan Chah chính là nói về cái biết trong kinh Tứ Niệm Xứ: Cái biết bất biến quán chiếu pháp sinh diệt vạn biến.
Như vậy, ta thấy có hai phần rõ rệt, phần tâm và phần trạng thái tâm, tâm thật và tâm giả, hay ta thật và ta giả. Tâm thật, Ta thật là gì? Tâm giả, Ta giả là ai?
“Bạn là bầu trời, mọi thứ khác đều là thời tiết (“You are the sky. Everything else is just the weather”) của Pema Chodron, một vị thiền sư Tây Tạng, là một câu trả lời hay.
Mà bầu trời hay không gian là gì? Chỉ là sự rỗng không, rỗng không nhưng tròn đầy. Chẳng là gì cả nhưng dung chứa tất cả. Chưa bao giờ sinh, không bao giờ diệt. Đó là lý do tại sao để hiểu được cái biết không sinh không diệt (chân tâm) này, hư không vô sanh bất diệt là một “đối tượng” thích hợp để cảm nghiệm.
Khi cảm nhận được chiều kích vô vi của hư không cũng là lúc ánh sáng của tánh biết hòa nhập được với ánh sáng cội nguồn, nhận ra chiều vô biên, vô lượng “thường chiếu”, “tịch chiếu” sẵn có của tâm thức thanh tịnh, thuần khiết.
Và khi hành thiền quán Tứ Niệm Xứ, phải luôn luôn nhớ đến cái biết như hư không này để quan sát“thời tiết” lúc này, lúc khác của thân, thọ, tâm pháp và không đồng hóa với chúng, cho chúng là ta, là của ta. Đây chính là mục đích của con đường giải thoát, kinh nghiệm được “tâm không bám víu”, và điều đó đã thể hiện rất rõ ràng trong lời kinh qua câu nói được Phật lập đi lập lại rất nhiều lần: “Vị ấy không nương tựa, không chấp trước bất cứ một tướng gì ở trên đời”.
Cặp mắt phân biệt được cái gì là thật, cái gì là giả, đâu là vô vi thường hằng, đâu là hữu vi hư vọng là yếu tố quyết định được trí tuệ và an lạc trên đường tu. Vô vi là thật vì không bao giờ mất, tại sao lại không bao giờ mất? Bởi vì không có nhân duyên thì không thể có sinh, có diệt, có thể nói là “không có gì để mất”. Cũng như hư không, không có gì làm sao mất được. Vạn pháp sinh và chết trong lòng của hư không, nhưng hư không là bất tử.
Chân thật, biết chân thật
Không chân, biết không chân
Chứng đạt được chân thật
Do chánh tư, chánh hạnh [8]
Không chân, biết không chân
Chứng đạt được chân thật
Do chánh tư, chánh hạnh [8]
Chân thật chính là ánh sáng vô tướng của tánh biết, không chân là bóng tối của hình tướng qua bao nhiêu kiếp sống đã che mờ tánh biết chân thật đó. Hay nói cách khác là nhận ra được bản chất chói sáng của tánh biết là nhận ra cái “ta thật”. Và nói như thế có phải hành trình phá vỡ sự đồng hóa với bản ngã hay cái “ta giả” sẽ được dễ dàng hơn chăng?
Dù trong kinh Pali, Phật chỉ nói “Tâm này là sáng chói, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào. Tâm là sáng chói và tâm này được gột sạch các cấu uế từ ngoài vào.”[9]. không nói gì đến cái ta thật. Nhưng từ câu kinh trên, cũng không khó để thấy được hàm ý là có sự hiện hữu của một tâm sáng chói, vô nhiễm và một tâm mà sự chói sáng bị che mờ, bị ô nhiễm.
Trong nhiều truyền thống Phật giáo, có những cách nói khác nhau để tạm thời phân biệt được thật và giả, như nói Ta thật là “Tánh biết” hay “chơn tâm”, “chơn ngã”, “chơn tánh”, “tự tánh”, “minh tâm”, “phật tánh” .v..v… hay gì gì đi nữa cũng không thành vấn đề, quan trọng ở đây là hiểu được ngôn từ, khái niệm chỉ là những ngón tay (pointer) hay bảng chỉ đường (signpost) và vượt qua nó để thực chứng chân lý vốn tịch diệt, không lời, chỉ có thể nhận ra bằng tĩnh lặng, vô ngôn. Kinh nghiệm được vô ngã, vốn bất khả tư nghì, không thể bằng chữ nghĩa.
Và để dễ hiểu, chúng ta có thể nói thế này: Cái gì mà ta có thể quan sát được thì cái đó không phải là ta. Ta chính là người quan sát nên không thể thấy được chính mình, giống như con mắt có thể thấy mọi vật nhưng không thể thấy được chính nó.
Mở đầu bài kinh Tứ niệm xứ, câu “Tinh cần, chánh niệm, tỉnh giác” khi “quán tánh sanh diệt” của thân. thọ, tâm, pháp là một lời kinh cốt lõi về thái độ khi đi vào thiền. Niệm (sati) nghĩa là nhớ (remember), là nghĩ (think), là biết (know). Nhớ là nhớ đến cái biết chân thật, nghĩ là nghĩ đến chiều kích vô vi của tâm tỉnh thức và biết là biết rõ cái biết không sinh không diệt.Và chánh niệm (samma-sati) với ý nghĩa sâu nhất là sự hiện hữu đơn thuần, trống rỗng và thanh tịnh như hư không. Tỉnh giác là tinh cần gìn giữ kiên cố ngọn đèn quan sát này, không để bị pháp sanh diệt cuốn đi, lúc nào cũng nhớ, cũng nghĩ đến nhiệm vụ nhận biết của người chủ nhà.
Với thái độ như vậy để “nhiếp phục tham ưu ở đời” , ta sẽ hiểu được sự thảnh thơi, ung dung, nổ lực không cần dùng sức trong thiền quán nếu biết nghệ thuật điều chỉnh cách nhìn. Chỉ nhìn và không dính mắc với những cái nhìn được. Không làm gì cả, chỉ hiện hữu với “cái đang là”, “xuôi thuận” với những gì đang xảy ra, “cắm rễ” và “song hành” với không gian và sự tĩnh mặc ngoài thời gian của phút giây hiện tại. Dù đi, đứng, nằm. ngồi, tâm lúc nào cũng “tĩnh tọa” và rộng sáng như bầu trời.
Có phải đây là nghệ thuật “dừng lại” và “buông bỏ” dành cho những ai muốn “vượt bộc lưu” hay “đặt gánh nặng xuống” mà Phật đã dạy khi xưa?
QUÁN PHÁP
Phần này gồm có sáu phần: năm triền cái, ngũ uẩn, sáu nội ngoại xứ, tứ đế, thật giác chi và bát chánh đạo. Với nội dung của các pháp được nêu ở đây, ta có thấy được tiến trình thanh lọc của con đường từ chặng đầu đến chặng cuối.
“Vạn sự khởi đầu nan” là vượt qua năm triền cái. Cửa ải đầu tiên phải đối diện là cảnh “tắc nghẽn giao thông”, đối diện với “đài phát thanh không ngừng nghỉ”. Tình trạng đầy gai góc chập chùng này còn gọi là năm chướng ngại hay năm pháp che lấp. Chướng ngại vì là bức màn che lấp mất ánh sáng của cội nguồn tâm, làm mờ “bản lai diện mục”. “Gương mặt nguyên thủy” này không thể hiển lộ, không như thậtbiết được, thấy được cũng chính vì năm triền cái.
“Này Bà-la-môn, một bát nước trộn lẫn với thuốc nhuộm gôm lắc, hay màu đỏ tía, hay màu xanh, hay màu vàng, và ở đây một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, không có thể như thật biết được, thấy được.”(tham triền cái)
“”Này Bà-la-môn, một bát nước được lửa đun sôi, sôi lên sùng sục, sôi lên cuồn cuộn. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm mặt của mình, không thể như thật biết và thấy được.”(sân triền cái)
“Này Bà-la-môn, một bát nước bị rong rêu che phủ. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm khuôn mặt của mình, không thể như thật biết và thấy được.” (hôn thụy triền cái)
“Này Bà-la-môn, một bát nước bị gió thổi, dao động, chấn động, nổi sóng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm khuôn mặt của mình, không thể như thật biết và thấy được.” (trạo cử triền cái)
“Này Bà-la-môn, một bát nước bị khuấy động, khuấy đục, khuấy bùn, đặt trong bóng tối. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm khuôn mặt của mình, không thể như thật biết và thấy được. “ (hoài nghi triền cái) [9]
Khi tâm bị che lấp bởi năm triền cái được ví như một người bị mắc nợ, người bịnh hoạn, tù nhân, kẻ nô lệ và người giàu đi qua sa mạc. Khi đã thoát ra được những triền cái này là cảm giác sung sướng, hoan hỷ của một người trả hết nợ, người khỏi bệnh, người tự do, người đến được đất lành bình an. [10]
Và cách vượt qua khéo léo nhất vẫn là cách giữ vừng vàng tấm gương trước thiên hình vạn trạng của hình ảnh đi qua tấm gương đó.
Tấm gương và hình ảnh phản chiếu là một trong những ví dụ hay để minh họa cho cái biết và đối tượng được biết. Hình ảnh phản chiếu của tham, sân, hôn thụy, trạo cử, hoài nghi cứ thế đi qua, không lưu lại dấu vết trong gương. Gương không làm gì cả, chỉ ghi nhận và buông xả.
Khi qua được “mịt mù” của ngũ cái, sự hiểu biết về bản chất giả tạm của ngũ uẩn sẽ rất sâu sắc, cũng như tính chất duyên khởi của vạn pháp phát sinh khi lục căn (sáu nội xứ) tiếp xúc với lục trần (sáu ngoại xứ), bốn sự thật cùng với cảnh “trời quang mây tạnh”, gió lặng sóng yên” tràn đầy “vị mặn giải thoát” của thất giác chi và bát chánh đạo.
QUÁN THÂN – QUÁN THỌ - QUÁN TÂM
Khi bước vào thiền, giai đoạn khởi đầu bao giờ cũng với hơi thở, “cảm nghiệm toàn thân” với hơi thở ra, hơi thở vào thực sự là chuyển động của gió khi kết nối không gian bên ngoài và không gian bên trong thân. Cách quan sát này có thể gọi vui là “gió vào nhà trống” hay “gió lộng vườn không”. Khi gió hòa với đất, nước, lửa tạo được quân bình giữa không đại là bước khởi đầu vững chắc gọi là giai đoạn “an tịnh thân hành”, tạo nền tảng cho những cảm nghiệm tiếp theo như “cảm giác hỷ thọ”, “tâm hân hoan”, tâm định tĩnh”, tâm giải thoát” v.v..[11]
Xin trở lại với ví dụ “bầu trời và thời tiết” đã đề cập phần trên.
Bầu trời là không gian vô biên của tâm nhận biết, gió là hơi thở, mây là suy nghĩ, còn những rung độngkhác như nhịp tim, mạch đập, cảm giác dễ chịu, khó chịu là động đất,. Vẫn với nguyên tắc “lấy tĩnh chế động”, hướng tâm đến sự an bình và tĩnh lặng của bầu trời phải là “ưu tiên hàng đầu”, còn gió, mây …thuộc về thời tiết đổi thay là “chuyện nhỏ”, dầu cường độ thế nào cũng giữ cái biết “bình chân như vại” để quan sát bản chất vô thường của chúng nhưng không “té ngã”. Khi mới bước vào thiền, “té lên té xuống” là điều không thể tránh khỏi, nhưng cũng giống như học võ, mối lần té và cố gắng đứng dậy là mỗi lần công lực tăng lên. Con chim trước khi bay vào không trung cũng “rớt lên, rớt xuống” không ít lần với đôi cánh còn non yếu.
Để kinh nghiệm được cội nguồn vô tướng của tâm, dấu hiệu đầu tiên để nhận biết sự sáng chói, rỗng không này chính là những khoảng trống vô niệm (no-mind gap), không có suy nghĩ, chỉ có cái biết thuần túy nhưng không có nội dung. Khi tâm lắng xuống, trong dần, chúng ta sẽ quán sát và kinh nghiệm được những khoảng trống yên lặng này (silent gap) giữa hai luồng tư tưởng. Khoảng trống vô niệm và yên lặng này giống như khoảng trời xanh giữa hai đám mây, hay khoảng cách giữa những giòng xe khi lưu thông trên đường. Một tâm trí tán loạn, phóng dật, thích suy tư, diễn dịch, không được tu tập chỉ như mây chập chùng, hay như xe cộ ồn ào, dày đặc, không thể hiểu được sự vi diệu của trạng thái gọi là “sự im lặng của bậc thánh” này. Đây là một trong những ý nghĩa sâu thẳm của Trung đạo, con đườngngược dòng đi giữa các tướng thuộc thế gian!
Hãy cùng đọc một đoạn ngắn trong phần quán tâm:
“Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri: "Tâm có tham"; hay với tâm không tham, tuệ tri: "Tâm không tham". Hay với tâm có sân, tuệ tri: "Tâm có sân"; hay với tâm không sân, tuệ tri: "Tâm không sân".v..v [12]
Giữa dòng tâm thức khi xuất hiện tâm không có tham, tâm không có sân, tâm không có si, tâm được thâu nhiếp, tâm quãng đại, tâm có định, tâm có giải thoát … chính là những khoảng trống, có thể nói đó những thoáng nhìn (glimpse) được sự thuần khiết của tâm thức cội nguồn. Với nhiệt tâm và tỉnh giác, theo thời gian những khoảng trống này sẽ kéo dài hơn, kinh nghiệm về tâm định vô tướng sẽ sâu hơn. “Satori” (flash of enlightenment, ánh chớp giác ngộ) là một từ quen thuộc để diễn tả trạng thái này, khi satori được mở rộng ra sẽ là samadhi.
Hành thiền thực ra không phải để chứng đạt được cái gì chưa có mà là xả ly tướng để phát hiện lại kho báu đã có sẵn bên trong. Vàng ròng vốn sẵn đó, chỉ cần loại sắt kẽm đồng chì. Nước trong vốn sẵn đó, chỉ cần lọc được rong rêu, bùn sình. Vải vốn trắng đó, chỉ cần gội rửa cấu uế, tạp dơ. Lõi cây vẫn có đó, chỉ cần buông cành lá, vỏ cây. Mặt trăng sáng vẫn sáng đó, chỉ cần thoát khỏi mây mù. Những hình ảnhquen thuộc này đã được Phật giảng trong nhiều bài kinh. [13]
Nói cách khác, chân lý đã có sẵn đó rồi, chỉ cần “hồi đầu” thì sẽ nhận ra thôi. Viêc cần làm là buông bỏcác tướng, đặt gánh nặng của các tướng xuống thì vô tướng sẽ hiển lộ, bóng tối sẽ tan dần khi ánh sáng sanh lên.
Để kết bài, xin mượn hai bài thơ thiền quen thuộc, tuy ngắn nhưng chứa đựng tinh thần “không chấp trước bất cứ một tướng gì ở trên đời” của Kinh Tứ Niệm Xứ. Đó cũng là cốt tủy “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang.
1. "Nhạn quá hàn đàm, nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh"
"Phong lai sơ trúc, phong khứ nhi trúc bất lưu thanh’’
2. “Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm”.
"Phong lai sơ trúc, phong khứ nhi trúc bất lưu thanh’’
2. “Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm”.
Namo Buddhaya Dhammaya Sanghaya.
Minh Tuệ Đỗ Minh
Chú thích.
[1] Trường bộ kinh 16. Kinh Đại Bát-Niết-Bàn (Mahàparinibbàna sutta)
[2] Achan Chah, Suối nguồn tâm linh , Chương 23, Trang 303, Minh Vy dịch
[3] Tham khảo: - 1. Đại Niệm Xứ, U Silananda, Khánh Hỷ dịch, trang 29, Như Lai thiền viện, 1999. - 2. Đại Niệm Xứ tường giải, Pa Auk Sayadaw, Pháp Thông dịch Việt, trang 104, NXB Tôn giáo, 2010. - 3. Tứ Niệm Xứ giảng giải, S.N. Goenka, Pháp Thông dịch, trang 44, NXB Văn hóa Sài gòn, 2006.
[4] Ajahn Brahm, Happiness through meditation, Chapter 7, p.82, Wisdom Publication, 2006 – và Từ chánh niệm đến giác ngộ, Nguyên Nhật Trần Như Mai dịch, chương 7, trang 146, NXB Phương Đông, 2009.
[5] Pali-English Dictionary, Pali Text Society, Rhys Davids and Steve, p.431.
[6] Ajahn Chah, https://thuvienhoasen.org/a8727/cuoc-doi-ajahn-chah
[7] Kinh Pháp Cú 12.
[8] Kinh Tăng Chi, Chương Một, Phẩm đặt hướng và trong sáng
[9] Tương Ưng Bộ - Tập V - Thiên Đại Phẩm - Chương II, Phẩm VI.
[10]Trung Bộ Kinh 39, Đại kinh Xóm ngựa.
[11] Trung bộ kinh 118, Kinh quán niệm hơi thở.
[12] Trung Bộ Kinh 10, Kinh Niệm Xứ.
[13] Chẳng hạn Tương ưng bộ kinh, Tập V, Thiên đại phẩm, chương II, Phẩm IV. Hay Pháp cú 172, 173.