LÂM TẾ VÀ CON ĐƯỜNG TÌM ĐẾN GIÁC NGỘ

Lâm Tế (?--867) người được mệnh xưng hy hữu độc đáo trong Thiền Tông, có một tuyệt chiêu quái đản, xoáy thẳng vào trọng tâm Giác ngộ của người đối diện. Tiếng hét tựa như tiếng nổ long trời lở đất, kẻ nào nghe phải đinh tai nhức óc chấn động cả hệ thần kinh, đẩy thẳng kẻ ấy lên tận mây ngàn chơi vơi giữa khoảng không chẳng bám vào đâu được, âm ba của nó cuồn cuộn như hải triều quét sạch chướng ngại cuốn phăng vào lòng đại dương. Lâm tế xử dụng với những xảo thuật tinh diệu mà không cần phải lý luận, người tiếp nhận vẫn đạt được giác ngộ trong sự gay cấn, khiếp đảm, cùng cực nhất.
Lâm tế đã từng vung những cú đánh làm người thưởng ngoạn quên đi nỗi đau thân xác, lách mình tìm tới chặng đường trực giác. Mấy mươi thế kỷ đã đi qua những khởi động ngài tung ra vẫn còn tìm ẩn trên đỉnh non cao đổ xuống cuộc đời, tắm mát con người chìm lặng trong bể trầm luân, chơi vơi trong hố thẳm. Đâu đó âm vang như được dịp chọc thủng màng tai, ngự mãi trong dòng nhân sinh luân chuyển, còn lại khoảng không chứa đầy âm hưởng của tiếng hét huyền diệu năm xưa bỗng vọng về.

I. LÂM TẾ VÀ CON ĐƯỜNG TÌM ĐẾN GIÁC NGỘ

Thời gian lững lờ trôi nhanh, như chiếc lá vàng vừa mới rụng, đã ba năm trôi qua mà Lâm Tế chưa tìm thấy được bản lai diện mục của mình, dù hằng ngày sống trong không khí bao phủ của Thiền. Mãi đến khi vị thủ tọa hỏi:
- Ông ở đây bao lâu rồi ?
- Thưa ba năm.
- Ông đã gặp Thầy lần nào chưa ?
- Thưa chưa.
- Tại sao chưa?
- Tại vì tôi không có câu nào để hỏi Thầy.
Vị thủ tọa bảo: “Đi gặp Thầy và hỏi yếu chỉ đạo Phật là gì.” Lâm Tế vâng lời và đến gặp Hoàng Bá để hỏi: “Yếu chỉ đạo Phật là gì?” Câu hỏi vừa xong âm vang của nó chưa kịp tan loãng vào hư không Lâm Tế bị đánh ba mươi hèo. Đã ba lần như vậy và lần nào cũng đau thấu tâm can thân xác mỏi mệt vì thấm đòn. Ra về mà lòng vẫn còn hậm hực, thiểu não, Giác ngộ làm gì? Khi thân xác rã rời tâm tư khép chặt, nỗi đau nói không nên lời, nhưng Lâm Tế quyết không hề nãn lòng thối chí trước những hung bạo của Huỳnh Bá. Ba năm trường Lâm Tế đến Huỳnh Bá để tìm cầu sự chứng ngộ, lẽ nào không có một câu hỏi với sư phụ thì làm sao có thể giải đáp cho mình sự tha thiết cầu mong. Có lẽ sự yên lặng ấy là giai đoạn Lâm Tế đang tự mình truy cứu bằng những phương thức để thấy được bổn tâm, và có lẽ chính nhờ tự gõ vào tâm thức ấy mà Lâm Tế cảm thấy mù mờ mọi ngôn từ không có gì để hỏi Huỳnh Bá, từ đó quá trình tu tập thu ngắn lại, khi mà vị Thủ tọa biết thời cơ mới khuyên Lâm Tế tìm gặp Sư phụ. Sau đó ba lần hỏi đều bị ăn đòn, mà con đường giác ngộ vẫn chưa thấy. Lâm Tế quyết định đi tìm thầy khác. Huỳnh Bá chỉ ngài đến Đại Ngu, khi Lâm Tế đến, Đại Ngu hỏi:
- Ở đâu tới?
- Ở Hoàng Bá
- Hoàng Bá có dậy dỗ những gì ?
- Nghĩa Huyền nầy ba lần hỏi về yếu chỉ của đạo Phật thì cả ba lần đều lãnh đủ nhiều gậy mà chẳng được dạy gì cả, chẳng biết tôi có lỗi gì ?
Đại Ngu bảo:
- Chẳng ai có thể tốt bụng hơn gã hòa thượng hủ lậu đó, thế mà ngươi còn muốn biết mình có lỗi ở đâu.
Bị Đại Ngu la rầy quở mắng Lâm Tế mới chợt thấy được cái dụng của Hoàng Bá chứa đầy sự thương mến trong cung cách tàn bạo. Ngài bèn thốt lên:
- Thế ra Phật Pháp của Hoàng Bá chẳng có chi nhiều.
Đại Ngu nắm ngay lấy cổ áo của Lâm Tế và bảo:
- Phút trước nhà ngươi nói không hiểu nổi, bây giờ bảo chẳng có chi nhiều, thế nghĩa là gì ?
Lâm Tế không trả lời, lại đánh vào cạnh sườn Đại Ngu ba thoi. Đại Ngu gỡ ra và bảo: “Thầy ngươi là Hoàng Bá, việc này chẳng can gì đến ta”.
Khi Lâm Tế trở lại, Hoàng Bá hỏi:
- Sao lại về nhanh thế?
- Vì thầy quá tử tế như bà nội.
Hoàng Bá nói:
- Đợi khi nào gặp gã Đại Ngu ấy ta cho gã hai chục gậy.
Lâm Tế đáp: “Khỏi cần gặp, có ngay đây”.
Vừa nói, vừa vỗ cho lão hòa thượng một chưởng thật nặng. Lão hòa thượng cười ha hả !
Lâm Tế trải qua những trận đòn hối thúc đau điếng và cũng chính nhờ những lần đau ấy mà tâm thức trở nên tinh luyện, chặng đường đi đến tìm gặp Đại Ngu là cơ hội để Lâm Tế suy gẫm thật nhiều cung cách mà Hoàng Bá đã đối xử với Lâm Tế, và nhờ đó điểm cuối cùng có cơ may bùng dậy khi nghe những lời trách bảo của Đại Ngu. Lâm Tế dù không hỏi Hoàng Bá trước đó, bởi khoảng thời gian nầy đang có những cái bất an, bao phủ tâm tư một cách mù mờ, chưa tìm gặp vị thế hẳn hoi, nhưng không khí Thiền hàng ngày Lâm Tế cảm nhận vẫn là những trợ duyên vô cùng cần thiết và tác động mãnh liệt trong nội tâm của ngài, tự mình chìm lặng trong cái ẩn hiện mênh mang của Thiền. Nếu không gõ cửa thì cửa không bao giờ mở. Lâm Tế chỉ thấy một cách mang máng ở tâm tư mình nhưng, vẫn chưa xác định sự hiện diện của nó là cái gì, chỉ có dấu hỏi to tướng nhưng Lâm Tế chẳng biết phải hỏi như thế nào, có cái gì không được an ổn đang ngự trị, những rối rắm chưa biết đâu là đầu mối để phăng ra khỏi cái gút, mãi đến khi “Yếu chỉ Phật Pháp là gì ?” Lâm Tế mới bám chặt vào công án nầy, từ đó phăng ra con đường đi đến giác ngộ. Những mù mờ thấp thoáng trở nên những chất liệu cần thiết để Lâm Tế đủ năng lực bám thật chặt vào gút ấy, cái ẩn ngăn nầy là những diệu dụng mà Lâm Tế đã huân tập trong ba năm nhưng, không biết xử dụng nên nó trở thành bàng bạc không rõ. Nhờ cái ấn nhẹ tay của Đại Ngu, Lâm Tế mới choàng mình thấy được Phật Pháp nơi Hoàng Bá.
Con đường giác ngộ của Lâm Tế quả cam go, bù lại để được những lời giải thích thì có những cú đánh thay câu trả lời. Ngài đủ kiên nhẫn chịu đựng đến lần thứ ba quả cũng vĩ đại rồi. Để rồi sau đó cuộc đời Lâm Tế xử dụng tiếng hét, cú đánh như trước đó ngài tận hưởng. Chính nhờ thấu triệt tấm lòng từ của Sư Phụ nên Lâm Tế không ngần ngại áp dụng phương cách nầy và cũng để biểu lộ, khai thị kẻ đối diện sự thương mến đi kèm với tiếng hét cú đánh.

II. TIẾNG HÉT TUYỆT KỶ CỦA LÂM TẾ

Tiếng hét của Lâm Tế đã từng gây rung chuyển núi đồi chập chùng, làm rúng động thiền môn. Kẻ nào nghe phải khiếp đảm đầu óc như vỡ tung ngay. Lâm Tế xử dụng nó như một tuyệt tác phi thường, âm ba tựa muôn ngàn âm thanh quái đản, khủng khiếp trỗi lên cùng lúc đẩy lùi khoảng không đến tận cùng sự vật.

Lâm Tế chia ra làm 4 loại hét:
- Có tiếng hét như gươm báu vua Kim Cang
- Có tiếng hét như bốn vó sư tử vàng trụ bộ trên mặt đất
- Có tiếng hét như cần câu quơ bóng cỏ
- Có tiếng hét không có tác dụng của tiếng hét.

Trước Lâm Tế có Mã Tổ (709-788) đã xử dụng tiếng hét khi Bách Trượng (724-814) đến hỏi Thiền. Nhưng đến thời Lâm Tế khai triển nó trở thành tuyệt chiêu, do cách xử dụng vi diệu và hiệu năng phi thường của nó, đẩy tung kẻ đối diện bay bổng lên tận trời cao, rơi vào khoảng không hụt hẫng. Hễ mở miệng ra là bị tiếng hét nầy chun vào đánh phá trong tận cùng tim phổi, và hễ chuẩn bị mở miệng là bị hét tới tấp, làm cho kẻ đối diện chùng bước trước những suy luận, không biết phải bám vào đâu, chỉ còn cách phải trực diện may ra có thể tránh né và tìm điểm tựa. Nhưng hình như Lâm Tế biết điều này, nên tiếng hét có công năng bao phủ tất cả những lối đi lại của tâm thức, và ngay lối vào Giác Ngộ nó cũng bao bọc, đầu óc căng ra như quả nổ đang châm ngòi, nếu được nổ tung lên thì những bao phủ nầy trở thành mây khói tan loãng ngay. Còn nếu không, những run sợ hoang mang ray rứt cứ thế mà đè nặng lên tâm tư, không còn kẽ hở để ấn xuống, nhưng vẫn phải chấp nhận đến độ quật ngược tung mình ra khỏi mọi tương quan. Mục đích những xảo dụng, nhằm đưa ta tìm tới sự giác ngộ, không cần phải đi qua những lối mòn mà kẻ khác để lại trong những lần dọ dẫm hụt chân. Tiếng hét giúp ta khơi dậy những gì yên ngủ bấy lâu nay, do Vô Minh phong tỏa lối về, những bất an lúc nào cũng chờ chực sẵn, xông tới đẩy chúng ta rơi vào thế đấu tranh trường tồn trên những lo sợ, khổ đau hệ lụy đang bao phủ suốt đời.
Thiền giúp chúng ta tìm đến sự an vui, không cần phải dùng đến những lý luận bàn cãi sôi động của ý thức chi phối, những điều này trước đó đã hơn một lần đưa ta rơi vào thế bí không lối thoát, sự dựng nên thành trì tri thức không bao lâu lại bị kẻ khác lôi xuống đập phá, thêm vào đó ý thức mới phù hợp với hiện tình, nhưng rồi sau đó cùng chung số phận như lần trước. Cuộc đời sao cứ diễn mãi những trò ảo mộng như thế ?
Tiếng hét của Lâm Tế dồn chứa công lực thâm hậu, khi được xử dụng mạnh như vũ bão, xoáy lốc những chướng ngại đang hiện diện, tạo thành cơn cuồn phong dữ dội, quét sạch mọi tăm tối đang ngự ẩn trong kẻ đối diện, hiệu năng này có tác dụng chuyển hóa những quan niệm sai biệt trở nên diệu dụng và đưa hành giả thoát ra ngoài những biên kiến. Nhiều khi lối xử dụng nầy nhẹ nhàng uyển chuyển như làn gió hạ hây hẩy thổi nhè nhẹ lùa qua khung cửa, làm kẻ thưởng ngoạn cảm thấy tâm tư nhẹ nhàng lâng lâng thoát tục. Lâm Tế xử dụng tiếng hét, thoạt đầu khi nghe nói đến hét con người sẽ hình dung ra những dữ dằn của hét và nét run sợ của kẻ bị nghe hét, tuy nhiên đây là phương thức diệu dụng nhằm đưa chúng ta choàng tỉnh sau những tháng năm yên mình trôi lăn trong phiền trược, đột nhiên một âm vang cao vút dội mạnh vào tâm tư, bao nhiêu ý nghĩ ngổn ngang hốt nhiên dừng lại, từ đó cho chúng ta thấy ngay sự hiện diện chính mình trước những đe dọa, để ta có thể tìm phương xô đẩy sự bao phủ nầy, thoát ra ngoài con đường dẫn đến hố thẳm điên loạn triền miên. Và xảo thuật này đánh mạnh vào ý lực, nếu chúng ta trước đó đã nhiều lần tra vấn, chiêm nghiệm bản lai của mình nhưng vẫn chưa tìm thấy mặt mũi của nó, thì may ra từ sự rung chuyển này đưa ta thoát khỏi cơn thèm khát giác ngộ. Tựa như một hòn đá khi cuốc đất đụng phải, bay bổng vào bụi tre, gặp phải cây tre phát ra tiếng vang mà người cuốc đất bỗng nhiên hoát ngộ. Cách xử dụng tiếng hét của Lâm Tế đạt đến mức chuyên nghiệp đúng thời điểm thì nó mới xuất hiện và chắc chắn kẻ nào diễm phúc được nghe, cởi bỏ thoát thân một lần. Lâm Tế không biện luận lôi thôi khi có kẻ tìm gặp, câu trả lời tuyệt diệu là tiếng hét đinh tai đưa đến trực ngộ.
Ngoài tuyệt kỷ hét này ra Lâm Tế còn xử dụng lối đánh một cách ngoạn mục nữa, nếu bị hét thì không đánh và ngược lại nếu đánh thì không hét, và cũng có lúc Lâm Tế xử dụng cả 2 phương cách, nếu dùng đến thì kẻ đối diện chớp nhoáng có thể tìm thấy bộ mặt thật của mình khi âm vang chưa tan loãng.

Lâm Tế chia ra làm 8 loại đánh (bát bổng)
- Thưởng bổng
- Phạt bổng
- Tung bổng
- Đoạt bổng
- Ngu si bổng
- Hàng ma bổng
- Tảo tích bổng
- Vô tình bổng

Có một lần Định Thượng Tọa hỏi Lâm Tế: “Thế nào là đại ý của Pháp Phật”. Lâm Tế bước xuống Thiền sàng, nắm lấy thượng tọa, xáng cho một bạc tai, rồi xô ra. Định đứng khựng. Ông tăng đứng bên nhắc “Định thượng tọa sao không lạy Hòa thượng đi”. Định toan lạy thì ngay lúc ấy hốt nhiên đại ngộ.

III. DIỆU DỤNG CỦA TIẾNG HÉT TRONG THIỀN

Thiền nhắm đến phát huy và phục hồi nguyên ủy giác ngộ vốn sẵn có trong mỗi con người, hiệu năng thông đạt mọi dính mắc của tiếng hét, trở nên một trong những nét độc đáo trong Thiền. Chưa ai có thể cho chúng ta định nghĩa chắc chắn về Thiền, bởi lẽ Thiền vốn thoát ly ra khỏi ngôn từ, không lưu lại bóng dáng gì cả và thiền là sự linh năng, tri thức con người không thể kéo nó xuống để dán vào đó những định lý được. Nếu có điều này, thì không thể gọi là Thiền, nhưng trong tất cả và trên tất cả đều có nó hiện hữu. Chính vì không trói buộc trong ngôn từ nên hầu hết những vị Thiền sư rất ít khi phải biện luận dông dài, đáp lại điều này những tiếng hét, cú đánh, một vài lời không lúc nào ăn khớp với câu hỏi. Nhưng những điều này nhằm đặt lại vị trí cần thiết để giác ngộ vụt lên. Biện luận nhiều cũng không thay đổi được tâm thức kẻ đối diện, vì hầu hết con người hay nương theo và lầm tưởng ngôn ngữ là yếu tố quan trọng, chấp ngón tay là mặt trăng. Nếu đã rơi vào cửa ngõ chết cứng nầy, thì làm sao có thể băng mình tìm tới cửa ngõ của rỗng không? Tiếng hét trút ra tất cả những định lực vốn un đúc sẵn trong Thiền sư đánh mạnh vào tâm thức may ra tìm thấy được thức giác kẻ đối mặt. Âm vang của nó cao vút lên tận trời xanh, luồng kình lực nầy đẩy lùi những toan tính đang chận lối rơi vào hố thẳm của hư vô, phục hồi lại những giá trị mà thời gian không tàn phá vốn có sẵn trong mỗi con người.
Trong lịch sử Thiền Tông hai vị nổi danh nhất trong việc dùng tiếng hét để khai thị đó là: Vân Môn Văn Yển (?949) và Lâm Tế Nghĩa Huyền (?867) Vân Môn thì quát “Quan” còn Lâm Tế thì hét “Ha”. Hai thán từ nầy khác nhau, nhưng giống nhau nhằm mục đích quát tháo để giác ngộ bùng lên. Tuyết Đậu (980-1052) ca ngợi về thán từ nầy “Quan”: “Đã mất tiền toi còn mang tội vạ” Bạch Ẩn (1683-1768) bình rằng “Quả đấm dầu giận mấy, cũng không đánh vào mặt hoa” Nếu dùng ý niệm tri thức để truy cứu thì sẽ không tìm thấy được trả lời nào cho chúng ta, lạc lối như Lưu Nguyễn tìm lại động Thiên Thai.
Những Thiền sư khi vấn đáp với kẻ tìm đến không nằm trong khuôn phép luận lý nào, vì vậy hé mở cho chúng ta thấy đàng sau ngôn từ, sự cảm thông để nương theo đó tìm đến giác ngộ vẫn gần hơn, khi phải co mình trong những luận cứ, lập luận. Cách trả lời này chỉ là trá hình của tiếng hét hay cú đánh nhưng, bằng ngôn từ nửa thực nửa vô. Tiếng hét của Lâm Tế rất thịnh hành. Cho đến bây giờ trong thiền môn vẫn còn ngự trị tiềm ẩn, bước vào cổng tam quan chấn động ngay chữ “Quan” của Vân Môn dù chữ Quan nầy là cửa ải nhưng ở đây không có cửa nào hết, nếu có thì mở tung cửa để giác ngộ. Tiếng Ha từ trong tống thẳng ra làm bay bổng lên tận mây trời, nó len lõi vào thời không, ẩn mình trong tất cả những ngõ ngách, ngay khóm trúc cành hoa cũng có mặt tiếng Ha nầy ngự tìm, núp ẩn. Nếu không rũ sạch bụi trần thì không thể nào tìm thấy được sự có mặt vô cùng của nó.
Tiếp nhận sự vi diệu tuyệt vời của tiếng hét, đòi hỏi kẻ đối diện phải dứt trừ mọi nắm bắt đuổi theo phiền trược, đối diện với nó như nhìn với tất cả tâm thành tha thiết, bặt hết trần lao, nhưng yếu tố quan trọng là phải vận dụng xương tủy máu thịt mình, để những tác động của tiếng hét đánh thức màng vô minh bao trùm, phải tạo khoảng không để tiếng hét nầy tìm vào thì mới có cơ duyên để giác ngộ trỗi dậy, tìm được con đường đó không phải là một chuyện ai làm cũng được, hầu hết chúng ta ít chịu tạo cho mình cửa ngõ để đến tịch nhiên. Phải huân tập thật nhiều ý lực vượt thoát tử sinh và đánh phá liên tục vào tâm tư thì mới có thể dọn đường cho tiếng hét đến tác động thẳng trong ấy. Những đột biến do công năng của nó khơi dậy, may ra đó là đường dây để ta có thể phăng mình tới được đầu mối đích thực trực tiếp với chân lý, không còn run rẩy với cuộc sống không một chỗ dừng cho tương lai nầy nữa.
Dù rằng hiệu năng của tiếng hét Lâm Tế bắt tâm của mình phải tìm cách giải quyết một vấn đề không thể giải quyết được. Thực ra nếu không dồn chúng ta vào thế bí, thì làm sao từ đó có thể thoát ra khỏi bóng tối, nếu Lâm Tế không đẩy ta vào tận cùng những đe dọa khiếp đảm, thì ta không có đủ nghị lực để bình an trước những hãi sợ. Những vấn đề mà chúng ta cho là không giải quyết được, bởi lẽ chưa lần nào ta đem nó lên bàn mổ tâm linh để chiêm ngưỡng, nếu đã đem lên thì không còn quan trọng nữa, dầu sao cơ hội tìm lại một cách thật sự trong nội tâm, vẫn có khả năng lãnh hội được những diệu dụng khi có cơ duyên đối gặp Thiền Sư. Chỉ sợ khi nào chúng ta phó mặc thân phận mình cứ mặc cho con nước đưa đến đâu thì đến, muôn kiếp khó có thể thông đạt được mọi lý lẽ tử sinh của cuộc đời.

IV. GIÁ TRỊ ĐỘC ĐÁO NHỮNG BÀI PHÁP CỦA LÂM TẾ

Lâm Tế có lối nói pháp khiến tóc tai ta phải dựng đứng, trợn mắt, nhằm cách mạng đập tan hiển lộ nên sự thật, lắm lúc sự thật nầy phũ phàng như chính cái phũ phàng mà ta đang lặn hụp. Lâm Tế muốn lột trần cuối cùng tất cả, những giả dối con người đang trang sức phết tô để dệt nên một thần tượng phi lý, tôn thờ theo chủ nghĩa của lừa lọc. Lâm Tế còn đập vỡ tung những hình tướng con người qui phục. Vì hình tướng chỉ là lớp sơn bên ngoài tự nó phải tiêu hủy.
“Bậc đạo nhân chân chánh tuyệt không nắm Phật, không nắm Bồ Tát La Hán, cũng không nắm ba cõi thù thắng, quyết nhiên không câu chấp vào ngoại vật, thì trước mắt chánh pháp, vào lửa không phỏng, vào nước không chìm, vào ba đường địa ngục như dạo vườn cảnh, vào ngạ quỉ súc sanh mà chẳng thọ báo, vào sắc giới chẳng bị sắc mê hoặc, vào thanh giới chẳng bị thanh mê hoặc, vào vị giới chẳng bị vị mê hoặc, vào xúc giới chẳng bị xúc mê hoặc, vào pháp giới chẳng bị pháp mê hoặc".
Sáu căn của con người khi đối diện với trần cảnh thường khởi ra những tham đắm nên phải trôi lăn trong tử sinh, nếu xoay chuyển tất cả cửa ngõ bên ngoài để quán chiếu vào thể tánh thì mới có thể đi vào đâu nơi đó thành niềm an lạc, nếu điều này không được thực ngộ thì muôn kiếp làm kẻ sống trong phù vân nổi chìm, không chỗ dừng cho tương lai.
Tìm đến tư tưởng của Lâm Tế phải buông bỏ tất cả những ý niệm dù ngay hai chữ buông xả, bặt hết mọi ngôn từ, đừng tìm kiếm tra hỏi những thuật ngữ trong ấy, mà cần nhất thoát ra ngoài dính mắc thì mới có thể cảm nhận được sự thâm sâu và tấm lòng từ không bờ bến mà ngài để lại cho chúng ta. Ngài phá tung tất cả để đưa cho ta thấy đàng sau đó còn lại một cái gì mà trong ngôn từ, trong ý niệm không có.
“Cứ tự nhiên mà động dụng, mặc áo ăn cơm, cần đi cứ đi, cần ngồi cứ ngồi, đừng mảy may tâm niệm nào cầu Phật quả. Quí ông cho rằng đạo có tu có chứng, chớ nói nhảm. Đặt ra tu chứng là tạo nghiệp sanh tử. Ông nói sáu đạo muôn hạnh cùng tu, ta thấy toàn là nghiệp. Cầu Phật, cầu Pháp là tạo nghiệp địa ngục. Cầu Bồ Tát cũng là tạo nghiệp. Coi kinh coi giáo cũng là tạo nghiệp. Phật với Tổ Sư đều là người vô sự. Quí ông nói có đạo tu được, có pháp chứng được. Đạo nào mà tu? Pháp nào mà chứng? Chỗ thọ dụng của ông nay còn thiếu hụt vật gì chứ? Mà bồi đắp vào đâu chứ?”
Lối nói Pháp này của Lâm Tế làm chúng ta phải khiếp sợ trước những dụng ngữ không bị giới hạn ở định mức nào. Nhưng có ai dám bảo nó không tìm ẩn cả sự giải phóng con người ra khỏi triền phược trong ấy? Chúng ta vốn bị nhốt kín quá nhiều ngay trong quan niệm, trong mọi hệ lụy không phút nào độc lập tự do một cách toàn triệt, đâu đâu cũng ngăn cách, lôi kéo, làm sao tìm thấy được con đường thênh thang rộng mở không có mưa phùn nắng quái. Nếu không nhờ vào phương cách, san bằng tiêu hủy những ngăn ngại vi tế, dù đó là biểu tượng hình tướng, thì chặng đường nầy hãy còn đong đưa lẩn quẩn. Lâm Tế từng chặt tan dù đó là Phật là Tổ, với Lâm Tế ngôn từ từng gây khổ đau cho con người, tạo nên những xung đột phi lý trong nội tại và tạo ý thức chỉ biện luận so đo. Nếu không vượt ra ngoài những trì trệ ngăn cách này, sẽ phải lạc lối ngay, khó mà tìm lại được. “Nầy quí ông cầu chân lý ! muốn ngộ vào chánh tông (Thiền) chớ để thiên hạ phỉnh mình. Trong cũng như ngoài, gặp chướng ngại nào cứ đạp ngã ngay, gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La Hán hoặc họ hàng thân thiết giết hết. Chớ ngần ngại, đó là con đường độc nhất để giải thoát. Đừng để bất cứ ngoại vật nào trói buộc mình, hãy vượt lên, hãy bước qua, hãy tự do. Tôi thấy suốt trong thiên hạ những vị gọi là cầu đạo, không ông nào đến với tôi tự do và độc lập hết. Hễ gặp việc tôi đạp nhào hết, không cần biết họ đến với tôi bằng cách nào. Họ ỷ mạnh tay, tôi chặt đứt tay, họ ỷ giỏi nói, tôi bóp câm miệng, họ ỷ tinh mắt, tôi đập đui mắt. Quả thật bao năm rồi chưa một ông nào đơn độc đối diện với tôi, hoàn toàn tự do, hoàn toàn độc lập. Ông nào cũng mắc phải như nhau những trò lừa dối không đâu của hàng cổ đức. Tôi không có gì để cho quí vị. Tất cả những gì tôi có thể làm được là tùy bịnh mà cho thuốc, là giải phóng cho quí vị tất cả triền phược.”
“Này chư vị cầu chân lý, hãy tỏ ra đôc lập tự cường. Tôi trân trọng đặt vấn đề ấy với quí vị. Suốt năm mười năm gần đây, tôi chỉ nhờ có vậy mà chưa được gì hết. Người ta đến với tôi toàn là người ma, những súc sanh cổ quái vất vưởng bờ tre, rừng bụi, đồng hoang cỏ dại, điên khùng gặp gì cắn nấy, dơ dáy thối tha. Quí vị loài ở hang, sao dám hoang phí của tín thí? Quí vị đáng gọi là sư sao khi còn vọng tưởng điên đảo như vậy? Tôi nói cho biết, không Phật, không Pháp, không tu, không chứng ! Quí vị tìm gì ở nhà láng giềng? Đó là trên đầu ghép thêm một cái đầu mượn ! Quí vị thiếu gì?”
“Quí vị cầu chân lý, những gì quí vị thọ dụng hiện giờ đây có khác gì với chư Phật chư Tổ đâu. Nhưng quí vị không tin tôi mãi đi tìm bên ngoài. Đừng mê tưởng như vậy. Không có gì ở ngoài, mà cả bên trong vẫn không có gì nắm giữ được. Quí vị chấp theo lời tôi nói, nhưng thà dứt tuyệt tất cả tham cầu, đừng làm gì hết.”

TỨ LIỆU GIẢN CỦA LÂM TẾ

Lâm tế được kể như một trong những tay cự phách trong Thiền Tông. Tứ liệu giản là một minh chứng cụ thể, hay và rõ rệt nhất, nhờ vào đó hành giả có thể cảm nhận được những đòn bí hiểm mà chặng đường công án đã vén mở, dù rằng công án không nằm trong một phạm trù, kích thước, chỉ nhằm quật tung những gì câm nín yên nghĩ bấy lâu. Lối xử dụng và hiệu năng vẫn còn nằm trong mức độ thể nghiệm chặng đường tra vấn ấy.

Tứ Liệu Giản Lâm Tế đưa ra như sau:

- Có khi đoạt nhân không đoạt cảnh
- Có khi đoạt cảnh không đoạt nhân
- Có khi nhân cảnh đều đoạt
- Có khi nhân cảnh đều không đoạt

(Hữu thời đoạt nhân bất đoạt cảnh
Hữu thời đoạt cảnh bất đoạt nhân
Hữu thời nhân cảnh câu đoạt
Hữu thời nhân cảnh câu bất đoạt)

Lâm Tế hé mở cho chúng ta thấy rằng, có những lúc phải khước từ, bác bỏ, phản đối, hoặc chấp nhận. Biên giới của nó tựa như đường tơ kẻ tóc, nhích một cái là muôn trùng xa cách. Nó mênh mang và thâm sâu, không bám vào đâu được khi phải đối diện với Thiền Sư. Lắm lúc không chấp nhận người đến tham vấn các Thiền Sư, hoặc không phản đối lời của người ấy. Hoặc có những lúc cả hai đối tượng đều bắt gặp ở nhau một cái gì, hoặc chẳng bao giờ tương hợp được theo nghĩa không đoạt.

Lâm Tế giải thích trong ngữ lục của Sư:
- Có ông tăng hỏi: “Thế nào là đoạt nhân không đoạt cảnh?”
Sư đáp: Mặt trời ấm hiện phô gấm vóc
Trẻ thơ rũ tóc trắng như tơ
- “Thế nào là đoạt cảnh không đoạt nhân?”
Sư đáp: Lệnh vua đã ban hành khắp thiên hạ
Tướng quân ngoài ải dứt khói bụi
- “Thế nào là đoạt cả nhân lẫn cảnh?”
Sư đáp: Tịnh Phần bặt tin tức
Một mình ở một nơi.
“Thế nào là nhân cảnh đều không đoạt?”
Sư đáp: Vua bước lên ngai
Lão quê ca hát


Lối giải thích của Lâm Tế cũng vẫn còn bí hiểm như cái bí hiểm độc đáo của tiếng hét. Dù ở đây Lâm Tế còn cho ta một ý niệm so với tiếng hét cũng là một ý niệm, nhưng tựu thành bằng ngữ ngôn. Đầu mối để giác ngộ không nằm trong những suy tư khắc khoải, mà phải nằm trong thường nghiệm trực tiếp với tâm năng. Mức độ cảm nhận ở nội tại là điều tiên quyết để đạt được nguyên ủy nầy, hay ngược lại bung xuống hố thẳm, hoàn toàn tùy vào cảm nhận đúng mức hay không. Lâm Tế xử dụng Tứ Liệu Giản là mở thêm một cánh cửa khác để hành giả có thể dễ dàng hơn trong việc quật khởi tâm linh.
Riêng ở Việt Nam, thiền Phái Lâm Tế đã được truyền vào lần đầu tiên do Thiền Sư Thiên Phong thế kỷ thứ 13. sau đó phái Lâm Tế truyền vào nước ta một lần nữa Đàng Ngoài do các Thiền Sư Chuyết Chuyết và Minh Hành, Đàng Trong thì do các Thiền Sư Nguyên Thiều và Minh Hoằng Tử Dung, Minh Hải Pháp Bảo, Minh Vật Nhứt Trí, Minh Hành Từ Toại và Minh Giác Kỳ Phương.
Ảnh hưởng của Lâm Tế rộng lớn mạnh như vũ bão, quét sạch và cuốn phăng đi những trì trệ như tiếng hét của Lâm Tế đã gây phản ứng khốc liệt trong nội tại. Sự phát triển bành trướng của Tông Lâm Tế là tạo dựng lại Tông phái một cách rõ rệt truyền đăng cả mấy thế kỷ nay, hầu hết trong chúng ta đều mang trong mình giòng máu tâm linh của tiếng hét huyền nhiệm năm xưa, Lâm Tế đã từng tung ra chấn động cả thời gian, để rồi mười mấy thế kỷ nay nó hãy còn đi vào cuộc đời, chuyển hóa những trạng huống để trở nên một con người đích thực đã thừa hưởng âm vang của tiếng hét.
Dù qua những biến thiên của trời đất, của những bão tố bao phủ cho mỗi thời đại, một cách sáng tạo hay đập phá những di sản tối hậu, cũng đều tùy thuộc vào mức độ chứng nhập được những tinh hoa đã huân tập, và có lẽ đôi khi chỉ còn lại nhãn hiệu gắn vào mỗi người, nhưng thực ra trong ấy trống không, theo nghĩa chẳng có gì, chứ không phải trống không theo nghĩa không dính mắc. Lắm lúc đem nhãn hiệu nầy vung vãi mà không cần kiểm chứng lại sự có mặt cần thiết hay không.
Làm sao khơi dậy tiếng hét Lâm Tế năm xưa, để điểm tô cho con người trong sự đe dọa của cuộc sống hôm nay ?


Theo Thư viện Hoa Sen