Khắp thế giới không ai còn lạ gì tên tuổi Krishnamurti. Từ nửa thế kỷ nay, Krishnamurti đã đi lang thang cô độc khắp trái đất, đã kêu gọi mọi người giải phóng khỏi mọi nô lệ ràng buộc trong đời sống đau thương này.Tiếng nói của Krishnamurti là tiếng nói lặng lẽ của một con người đã tự giải phóng bản thân, của một con người đã trải qua tất cả mọi đau đớn không cùng, đã sống một triệu mùa ở hỏa ngục, đã tự giải thoát và nhìn thấy được Thực Tại toàn diện của đời sống, ca ngợi giòng đời vô tận, ngây ngất với tiếng cười lặng lẽ của mười triệu năm hư vô trong đêm tối nặng trĩu trái đắng mật đen.
Krishnamurti đã được nhân loại nhận là hậu thân của Phật Thích Ca và Chúa Giê su; Krishnamurti đã được mấy trăm triệu người ở thế giới tôn lên ngôi vị đấng Đạo Sư, bậc Giáo Chủ của nhân loại, thế mà Krishnamurti đã giải tán hết mọi tôn giáo, tổ chức, đã phủ nhận tất cả tín điều, đã phá hủy hết mọi triết lý và ý thức hệ, đã đập vỡ hết mọi thần tượng và, trên năm mươi năm trời đã một mình bước đi lang thang khắp nẻo đường trần gian, không tiền, không bạc, không hành lý, không gia đình, không quê hương, không truyền thống, chỉ một mình và chỉ đi một mình, cô đơn, cô độc, sống tràn trề, sống bất tận, sống vỡ bờ như một thác nước ào ạt, tuôn chảy mãnh liệt nhưng vẫn trầm lặng, nói rất nhiều mà vẫn im lặng, đi rất nhiều mà vẫn tịch nhiên bất động, gắn kết đời sống mà vẫn cưới hỏi sự chết, chết và sống giao nhau trên cung cầm thiên thu, sống và chết giao nhau trong đôi mắt sâu thẳm của Krishnamurti, trong tiếng nói thê thiết của Krishnamurti, một con người đã chết trong sự sống và đã sống trong sự chết, một con người đã không còn là con người nữa, vì đã vượt lên trên con người, đã chìm xuống tận hố thẳm của hư vô và bay cao lên đến tận đỉnh trời để trở về cuộc đời trần thế, tìm thấy Người Yêu mình trên những núi xanh lơ, tìm thấy Người Yêu mình trong dòng nước rực ngời của đại dương, tìm thấy Người Yêu mình trong con suối sủi bọt, tìm thấy Người Yêu mình trong ao nước in trời, tìm thấy Người Yêu mình trong thung lũng mây cao, tìm thấy Người Yêu mình trong cơn khói trời chiều, trong thôn xóm hoàng hôn, trong ngọn cây trắc bá, trong cổ thụ lâu đời, trong bụi cây ôm đất, trong cành lá cheo leo, trong cánh đồng nuôi chim, trong hải ngạn sóng vỗ, trong rặng dương đùa gió, trong bóng chiều mây phủ, trên dòng nước buổi chiều, dưới bóng sao, trong đêm thâu, trong ánh trăng, trong sự tĩnh mịch trước bình minh, trong tiếng ru cây lá, trong tiếng chim kêu buổi sáng…Chúng ta hãy cùng ca với Krishnamurti bài ca tình yêu :
….Trong những hải đảo xa xôi xanh thẫmTrên giọt sương mong manh
Trên con sóng vỡ bụi
Trên ánh nước lung linh
Trên cánh chim tung trời
Trên lá non đầu xuân
Người sẽ nhìn thấy nét mặt Người Yêu của ta
Trong đền điện linh thiêng
Trong vũ trường mê đắm
Trên nét mặt thánh thiện của tu sĩ
Trong bước đi lảo đảo của người say rượu
Nơi những gái điếm giang hồ và những trai tân trinh nữ
Ngươi sẽ gặp Người Yêu của ta.
Tôi đã giữ lại một tên người, một tên nổi hẳn lên, đối nghịch lại với tất cả những gì ám muội, khả nghi, hỗn tạp; đối nghịch lại những gì nặng nề sách vở từ chương, đối nghịch lại những gì trói buộc thúc phược; đó là tên Krishnamurti. Đây là một con người của thời đại chúng ta, một người mà chúng ta có thể nói là bậc thầy, đạo sư, người làm chủ thực tại. Ông đứng một mình một cõi. Không thể nào thấy được bất cứ người nào trên đời này đã hy sinh quên mình, từ bỏ, chối bỏ mọi sự, chối bỏ hết như là Krishnamurti đã thể hiện trong đời sống ông, tôi không thể nghĩ ra người nào đã có thể hành động hơn Krishnamurti, ngoại trừ đấng Christ. Căn nguyên nền tảng tư tưởng Krishnamurti rất là giản dị đến nỗi chúng ta có thể hiểu được lý do tại sao những lời lẽ hành động trực tiếp minh bạch của ông đã bị hiểu sai và đã gây ra bao nhiêu hỗn tạp đáng buồn. Loài người vẫn tầm thường như thế, họ luôn luôn chấp nhận một cách miễn cưỡng những gì có vẻ dễ hiểu giản dị. Óc ngoan cố ương ngạnh của họ còn thâm hiểm hơn tất cả mưu mẹo lừa đảo của ma quỷ, vì thế, họ đã bỏ quên, không chịu nhận ra những quyền hạn thiên phú có sẵn trong bản thể họ; họ chỉ đòi hỏi được giải thoát hay được cứu rỗi qua một trung gian môi giới nào đó; họ chỉ mải miết chạy đi tìm kiếm những người hướng dẫn, những kẻ chỉ đường dẫn lối, những vị cố vấn khuyên giải, những kẻ lãnh đạo, lãnh tụ, những hệ thống lập trường, những nghi lễ hình thức tế toái…Họ chỉ thích tìm kiếm những thứ ấy, họ chỉ muốn tìm những sự giải quyết, những đáp số, mà họ không biết rằng tất cả những đáp số đã nằm sẵn trong lòng họ rồi.Họ đặt sự học vấn trí thức lên trên cả sự thông minh tâm hồn; họ đặt quyền thế cường lực lên trên cả tài nghệ biện biệt tế nhị. Nhưng điều đáng lo ngại nhất và đáng nói trước hết là họ không chịu tự mình giải phóng giải thoát cho mình; họ không chịu cứu lấy bản thân mà cứ luôn luôn vờ vĩnh bày đặt chuyện cứu vớt thế giới, thế gian, thế nhân, vân vân. Họ bảo rằng thế giới “thế gian” phải được giải phóng trước đã, rồi mới nói chuyện giải phóng cá nhân.Thế mà biết bao nhiêu lần rồi Krishnamurti đã nhắc nhở rằng vấn đề thế giới chỉ là dính liền mật thiết với vấn đề cá nhân; cá thể và tập thể đều chỉ đồng nhất thể. Chân lý luôn luôn hiện diện, luôn luôn xuất hiện trước mặt chúng ta. Sự vĩnh cửu, bất diệt, thiên thu, vĩnh viễn nằm ngay tại đây, nằm ngay bây giờ, ngay giờ phút hiện tại. Và giải thoát ư ? Ồ, hỡi ngài, ngài muốn giải thoát cái gì ? Giải thoát bản ngã nhỏ bé bần tiện của ngài ư ? Linh hồn của ngài ư ? Diện mục của ngài ? Hãy đánh mất nó đi thì ngài sẽ tìm thấy lại mình. Đừng bận tâm lo nghĩ Thượng Đế – cứ để Thượng Đế tự lo cho Thượng Đế. Hãy tôi luyện những nghi vấn ngờ vực, hãy ôm lấy mọi thứ kinh nghiệm của đời sống, hãy tiếp tục thèm muốn khao khát, cố gắng đừng quên cũng đừng nhớ, hãy luôn luôn đón nhận và thể nhập tất cả những gì mình đã được thể nghiệm trong dòng đời tuôn chảy….“Con người là kẻ tự giải phóng bản thân”. Phải chăng đó là đạo lý tối thượng của đời sống ? Biết bao nhiêu bậc hiền nhân trác việt đã nhắc nhở và đã thể hiện bao lần giữa lòng đời. Họ là những bậc đạo sư, những con người đã làm lễ cưới với đời sống, chứ không phải với những nguyên tắc, luật pháp, tín điều, luân lý, tín ngưỡng. “Những bậc đạo sư đúng nghĩa thì chẳng bao giờ bày đặt ra lề luật, hay giới luật, họ chỉ muốn giải phóng con người”, (Krishnamurti).
Điều làm nổi bật Krishnamurti và nói lên sự khác nhau giữa Krishnamurti và những bậc giáo chủ vĩ đại trong lịch sử là sự trần truồng tuyệt đối của tâm hồn ông. Ông chỉ giữ lại cho mình một chỗ đứng độc nhất : một con người , với ý nghĩa giản dị đơn sơ của con người.
Mang lấy xác thịt mảnh khảnh của con người, ông nương tựa trọn vẹn vào tâm linh, đồng thời ý thức rằng tâm linh và thể xác chỉ là một, không khác nhau.
Ông chỉ giữ lấy một sứ mệnh độc nhất là tước bỏ con người ra ngoài tất cả những huyền tưởng, ảo giác, phá hủy cho sụp đổ tất cả chống nạng giả tạo của những lý tưởng, những tín ngưỡng, ngẫu tượng, phá hủy tất cả mọi hình thức chống đỡ con người, để trả con người trở lại sự tôn nghiêm trọn vẹn, sức mạnh vẹn toàn của nhân tính. Người ta thường gọi ông là “Đấng Đạo Sư của Thế Gian”. Nếu có người xứng đáng được gọi danh hiệu như thế thì người ấy chính là Krishnamurti. Đối với tôi, điều quan trọng nhất trong thái độ tâm linh của Krishnamurti là ông không bao giờ muốn chúng ta coi ông như là bậc đạo sư, như một bậc thầy, mà chỉ muốn là một con người, với tất cả ý nghĩa đơn giản thông thường của hiện thể.
(Henry Miller)
Nguồn: https://sites.google.com/site/tudodautienvacuoicung/con-nguoi-la-ke-tu-giai-phong-ban-than
[Chú thích : Krishnamurti, được Liên Hiệp Quốc trao tặng "Huân Chương Hòa Bình" năm 1984; hãy kích để đọc thêm về =>Krishnamurti (Ông Không dịch]=> Krishnamurti (Phạm Công Thiện dịch)
Trang 315-320, sách "Tự Do Đầu Tiên Và Cuối Cùng" :
=> 1. NÓI VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY.
Trang 321-324, sách "Tự Do Đầu Tiên Và Cuối Cùng":
HỎI : Cái gì xảy đến, khi chủ nghĩa ái quốc hạn hẹp đã mất đi ?
KRISHNAMURTI : Hiển nhiên là sự thông minh hiện đến. Nhưng tôi ngại rằng câu trả lời này không nằm trong thâm ý ẩn tàng của câu hỏi. Thâm ý kín đáo của câu hỏi là : cái gì có thể thay thế cho chủ nghĩa ái quốc hạn hẹp ? Bất cứ sự thay thế nào cũng là một động tác không đem tới được sự thông minh. Nếu tôi lìa bỏ một tôn giáo và đi theo một tôn giáo khác, hoặc lìa bỏ một đảng phái chính trị , rồi lại đi gia nhập một đảng phái khác, tất cả sự thay thế liên tục này chỉ chứng tỏ một tâm thái thiếu thông minh .
Làm thế nào để chủ nghĩa ái quốc hạn hẹp mất đi ? Chỉ có thể bằng cách hiểu được tất cả những ẩn ý khuất lấp của chủ nghĩa ấy, bằng cách khảo sát nó, bằng cách trực thức về ý nghĩa của nó trong hành động bên ngoài và bên trong. Bên ngoài, chủ nghĩa này đem đến sự phân hóa chia rẽ giữa con người, đem đến sự phân hạng, những cuộc chiến tranh phá hoại, điều này thực là quá hiển nhiên, đối với bất cứ ai chịu quan tâm. Bên trong, đứng về mặt tâm lý , sự đồng hóa, tinh thần đồng hóa với thực thể lớn lao, với quê hương tổ quốc, với một ý tưởng , hiển nhiên chỉ là một hình thức của sự bành trướng bản thân. Lúc sống trong một thôn làng bé nhỏ hoặc trong một thành phố lớn hoặc bất cứ ở đâu, tôi chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt, một người không ra gì cả, nhưng nếu tôi tự đồng hóa mình với một thực thể lớn hơn, với quê hương tổ quốc chẳng hạn, thì tôi mới tự gọi mình là một người Ấn độ chẳng hạn ; sự việc ấy vuốt ve tính hợm mình của tôi, nó tạo cho tôi sự thỏa mãn, uy tín, cảm giác lâng lâng khỏe khoắn quân bình ; sự đồng hóa với một thực thể lớn lao, tức là nhu cầu tâm lý thích ứng cho những kẻ nào cảm thấy rằng sự bành trướng bản thân là chính yếu, chính tinh thần đồng hóa ấy cũng đã tạo ra bao nhiêu là xung đột, tương tranh giữa con người với con người. Thế là chủ nghĩa ái quốc hạn hẹp chẳng những tạo ra xung đột bên ngoài mà còn gây ra những cơn tuyệt vọng phẫn chí nội tâm , khi nào mình hiểu được chủ nghĩa ái quốc hạn hẹp , hiểu được toàn thể tiến trình của chủ nghĩa ái quốc hạn hẹp thì nó sẽ rơi mất đi. Chỉ có thể hiểu được chủ nghĩa ái quốc hạn hẹp bằng sự thông minh của tâm hồn mình, bằng cách quan sát kỹ lưỡng, bằng cách dò sâu vào trọn vẹn tiến trình của chủ nghĩa ái quốc hạn hẹp , của lòng ái quốc. Nhờ sự dò xét khảo nhận ấy, sự thông minh mới hiện đến và lúc ấy, mình không còn thay thế chủ nghĩa quốc gia bằng một cái gì khác. Khi mình thay thế chủ nghĩa ái quốc hạn hẹp bằng tôn giáo, lúc ấy tôn giáo sẽ trở thành một phương tiện khác để bành trướng bản ngã , mầm mống nguồn gốc của sự xao xuyến sợ hãi, phương tiện để tự nuôi dưỡng qua tín ngưỡng. Do đó, bất cứ hình thức thay thế nào, dù có cao thượng đi nữa, cũng chỉ là một hình thức mê muội ngu xuẩn. Việc ấy không khác gì người bỏ hút thuốc và thay thế bằng nhai kẹo cao su hoặc ăn trầu hoặc bất cứ cái gì khác, trái lại, thay vì thế, mình thực sự hiểu được toàn thể vấn đề hút thuốc, những thói quen, những cảm giác ; những yêu sách tâm lý và tất cả mọi sự khác đại loại thế, thì thói hút thuốc sẽ rơi mất đi. Các ngài chỉ có thể hiểu được khi sự thông minh được khai triển, khi sự thông minh tác động, và sự thông minh không thể nào tác động được , khi ta vẫn còn tìm cách, thay thế cái này bằng cái khác. Sự thay thế chỉ là một hình thức tự hối lộ, đút lót bản thân mình xui khiến cám dỗ mình tránh làm việc này để rồi làm việc khác. Chủ nghĩa ái quốc hạn hẹp , cùng với thuốc độc của chủ nghĩa này, cùng với sự thống khổ và tương tranh ở thế giới do nó tạo ra, chủ nghĩa ái quốc hạn hẹp tai hại này chỉ có thể biến mất khi nào mình có được thông minh, và thông minh không xuất hiện bằng cách thi đậu cấp bằng và bằng cách đọc sách. Sự thông minh chỉ xuất hiện khi nào chúng ta hiểu được những vấn đề khi vấn đề ấy khởi phát. Khi nào mình hiểu được vấn đề trong những cấp độ khác nhau của nó, không những chỉ ở phần hời hợt bên ngoài mà cả phần ẩn tàng sâu kín bên trong tâm tư, chỉ có lúc ấy thì mới có được thông minh xuất hiện ngay trong tiến trình ấy. Thế là thông minh xuất hiện thì không có sự thay thế nào nữa ; và khi thông minh hiện hữu, lúc ấy, chủ nghĩa ái quốc hạn hẹp , lòng ái quốc, tức là một hình thức của sự ngu đần, tất cả thứ này đều cáo chung tiêu triệt.