Ngày nay, dường như chánh niệm (mindfulness) được hướng dẫn để áp dụng vào trong nhiều lãnh vực, và như một phương cách giải quyết mọi vấn đề. Như mỗi khi có một cơn giận hay buồn lo nào, chúng ta thường được nhắc nhở hãy dùng chánh niệm để tiếp xúc với cơn giận ấy. Và rồi với năng lượng của chánh niệm, những khó khăn ấy sẽ được chuyển hóa.
Nhưng theo ông Andrew Olendzki điều đó có thể sẽ dẫn đến một sự hiểu lầm về chánh niệm. Vì chánh niệm không phải chỉ đơn giản là một sự chú ý đơn thuần, mere attention, về đối tượng của nó. Ông viết “Khi ta giận ta có thể biết rõ là mình đang giận. Nhưng cái biết ấy sẽ không hề mang lại một sự chuyển hóa nào… Bạn có thể chú ý đến cơn giận của mình cả ngày, và cho phép nó có mặt ‘mà không phê phán’, trong khi nó vẫn cứ thiêu đốt sâu vào con tim mình.”
Chánh niệm là một tâm hành, mental formation, và theo ông thì muốn chánh niệm có được công năng chuyển hóa ta phải hiểu rõ về sự vận hành của nó.
--- oOo ---
Hai quan niệm về chánh niệm
Một quan niệm thì cho rằng ta có thể có chánh niệm về bất cứ một việc gì. Và nhờ vậy mà khi ta có chánh niệm về một trạng thái bất thiện lành nào đó, ta có thể có mặt với trạng thái ấy mà không phê phán, không đè nén và cũng không bị nó sai xử.
Và có một quan niệm khác lại cho rằng, vì chánh niệm là một trạng thái thiện lành, và sân hận là một trạng thái bất thiện, mà tâm ta thì không thể nào kinh nghiệm hai trạng thái trái nghịch nhau trong cùng một giây phút tâm được (in the same mind-moment). Thế cho nên, khi ta có chánh niệm về một cơn giận, thật ra là tâm ta đang chuyển đổi thật nhanh giữa hai trạng thái ấy mà thôi – giây phút của chánh niệm và giây phút của sân hận.
Không thể có hai tâm hành cùng một lúc
Khi nhìn sâu sắc ta sẽ thấy rất rõ điều này, là một người không thể nào giữ hai việc trong tâm trong cùng một lúc được. Nếu như ta có cảm nhận như mình làm được việc ấy, thật ra ta đang sử dụng một tư tưởng toàn diện rộng lớn (peripheral thought). Ta chỉ đang tạm giữ những dữ kiện ấy trong ký ức ngắn hạn, hoặc ở phần bên dưới ý thức của mình mà thôi. Vì khi nhìn sâu hơn vào kinh nghiệm ấy ta sẽ thấy rằng, nếu muốn biết được một việc gì cho thật rõ, ta phải thu hồi lại sự chú ý của mình trên những sự việc khác. Cũng như đức Phật có dạy trong bài kinh Song Tầm, Dvedhavitakka Sutta, “Này các Thầy, một vị Tỳ kheo suy tư quán sát nhiều về sự sân hận, vị ấy từ bỏ ý nghĩ về vô sân, và tâm vị ấy có khuynh hướng thiên về sự sân hận” “If one frequently thinks and ponders upon thoughts of ill will, one has abandoned the thought of non–ill will and one’s mind inclines to thoughts of ill will.”
Chánh niệm không chỉ là sự chú ý đơn thuần
Và một điều nữa cũng rất rõ ràng, chánh niệm là một trạng thái rất thiện lành. Nó là một tâm hành, sankhara, một thái độ hay phản ứng có ý thức về một đối tượng tâm thức nào đó. Chánh niệm là một thái độ trong sáng tĩnh lặng, nó có mặt với đối tượng mà không hề có một sự ưa thích hay ghét bỏ nào. Sân và hận cũng là những tâm hành, giống như những trạng thái bất thiện khác, nhưng chúng là những phản ứng có tính cách ghét bỏ và ác cảm. Chúng hoàn toàn khác biệt lại với chánh niệm.
Vì vậy mà một người không thể nào kinh nghiệm sự ghét bỏ và tĩnh lặng trong cùng một lúc được, chúng là hai trạng thái tâm thức khác nhau rất xa. Nhưng dù vậy, ta vẫn có thể thay đổi tới lui thật nhanh giữa hai trạng thái này, mà đó là cũng là một tiến trình vận hành rất quen thuộc của tâm.
Ví dụ, khi ta nói là mình đang có chánh niệm về cái giận, thật ra là ta chỉ có ý thức về cái giận, hoặc là ta đang chú ý đến trạng thái giận của mình mà thôi. Ngày nay, sự thành công của chánh niệm áp dụng vào trong lãnh vực tâm lý trị liệu, và qua những khám phá mới của khoa học, cũng gây nên một sự mất mát là người ta thường nhầm lẫn chánh niệm chỉ là một sự chú ý đơn thuần. Và theo môn tâm lý học Phật giáo ngày nay thì ta lại còn có thể đem tâm chú ý đến những trạng thái bất thiện của một kinh nghiệm, và ngay cả làm việc ấy một cách có chủ ý và theo một phương pháp cụ thể nữa.
Phương cách mà tôi muốn chia sẻ
Và đây là phương cách mà tôi muốn chia sẻ: Khi có một sự giận dữ nổi lên, ta không thể nào chuyển hóa được nó bằng cách “có chánh niệm về cơn giận của mình.” Năng lượng của cơn giận quá mạnh, và xung lực cảm xúc của nó cũng rất mãnh liệt, tâm ta không đủ trong sáng trong giây phút ấy để cho phép một chánh niệm thật sự khởi lên.
Nhưng dù vậy ta vẫn có thể chú ý đến sự biểu hiện của cơn giận ấy trong thân ta – cơ thể của mình cảm thấy như thế nào khi ta nổi giận? Và khi ta nhìn sâu và khám phá những dấu hiệu này nơi thân một cách chi tiết và sâu sắc hơn, một thái độ thận trọng quan sát sẽ dần dà được phát triển. Ví dụ, bạn có thể thử ghi nhận cái sắc thái, sự co thắt của những bắp thịt ở quai hàm trên mặt đang thay đổi một cách vi tế, từ giây phút này sang giây phút kế.
Với phương pháp này, ta có thể buông xả được cái ý nghĩ và ký ức về những gì đã làm kích động nên cơn giận ấy, và kinh nghiệm được những giây phút chánh niệm trên cơ thể mình. Và khi ta thiết lập được một số năng lực của thiện lành, ta có thể từ từ chuyển sự chú ý của mình sang để quán sát cảm xúc của ngay chính cơn giận ấy.
Bây giờ, cơn giận không còn là một cảm xúc bừng cháy và thiêu đốt bất cứ những gì nó kinh nghiệm nữa, mà đã trở thành một tư tưởng hay ký ức về cảm xúc ấy. Cơn giận lúc này đã trở thành một đối tượng của tâm, không còn là một tâm hành, và nó có thể được quán chiếu bằng sự tĩnh lặng và với chánh niệm. Cơn giận không còn trói buộc và sai xử tâm mình nữa, mà chỉ còn là một đối tượng của sự chú ý, nằm ngoài xa mà thôi.
Có buông xả mới có chánh niệm
Và rồi ta sẽ thấy rằng, mỗi lúc một rõ rệt hơn, cái giận cũng chỉ là một trạng thái biến đổi và nó không thuộc về của ai, nó được khích động do bởi một cái tôi nhỏ nhen và đầy sợ hãi, rồi làm phát sinh lên khổ đau. Với một cái thấy ấy, những trạng thái bất thiện lành sẽ bớt khởi lên hơn và cũng trở nên bớt mãnh liệt hơn.
Sự chú ý cần phải được phát triển để trở thành chánh niệm, nếu như chánh niệm muốn được phát triển để thành tuệ giác.
Nguyễn Duy Nhiên