Chánh
Kiến
Hỏi: Thưa Thầy có phải chánh kiến được tóm tắt bằng lời Đức Phật dạy cho ông Bāhiya “trong thấy chỉ thấy, trong nghe chỉ nghe…” chính là toàn bộ Đạo Đế? Như vậy có phải chánh kiến thuộc tánh biết hay bao gồm cả tánh biết và tướng biết?
- Chánh kiến là thấy pháp đúng như nó là, tức thấy được thực tánh chân đế của pháp. Cho nên câu “trong thấy chỉ thấy, trong nghe chỉ nghe…” chính là Chánh kiến mà cũng là Đạo đế.
• Tướng biết lúc thấy được vô thường, khổ, vô ngã của pháp tướng gọi là tri kiến thanh tịnh – “trạm xe cuối”* tuệ tri được tánh đế (sabhāva sacca).
• Tánh biết chói sáng (Pabhassara Citta) chứng ngộ được Thánh đế (Ariya sacca) tức liễu tri được Đạo, Quả và Niết-bàn (đã vào Thành)*.
*Kinh Trạm Xe
Khi tri kiến thanh tịnh thì tướng biết vắng lặng trở về với chức năng tướng dụng của tánh biết, không còn trở ngại cho tánh biết như khi bị bản ngã lý trí chiếm dụng thành “cái Ta biết”. Nói cách khác khi đó tướng biết tương thông với tánh biết, là tướng dụng của tánh biết qua 6 căn, hay nói cách khác: Tánh biết là căn bản trí (vô sư trí), tướng biết là hậu đắc trí. Câu “Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu” chính là khi tri kiến thanh tịnh hay tướng biết rỗng lặng thì tánh biết tự chiếu sang.
“Bặt dứt
tư tưởng”
Hỏi: Thưa thầy, ông Eckhart tolle có câu “sự tịch tịnh tâm linh thức tỉnh ra khỏi giấc mơ suy tư trong đầu mình chính là tánh biết”. Vậy tánh không hay tướng không mà ông nói là bản chất của tánh biết phải không?
- “Tịch tịnh tâm linh” có hai trường hợp:
•
Bặt dứt tư tưởng: Nói theo
Krishnamurti “bặt dứt tư tưởng” là lúc tâm hoàn toàn rỗng lặng thì
tánh biết tự chiếu ang.
• Không cần bặt dứt tư tưởng: Dẫu khi tư tưởng vẫn khởi nhưng tánh biết vẫn trong sáng có thể tuệ tri sự sinh diệt của từng tư tưởng.
• Không cần bặt dứt tư tưởng: Dẫu khi tư tưởng vẫn khởi nhưng tánh biết vẫn trong sáng có thể tuệ tri sự sinh diệt của từng tư tưởng.
Tánh biết đương nhiên chiếu sáng khi tướng biết vắng bặt mọi tư tưởng, nhưng thực ra tánh biết vẫn soi chiếu ngay khi tư tưởng đang lăng xăng sinh diệt. Bặt dứt tư tưởng thì “Tâm địa nhược không tuệ nhật tự chiếu” là đúng. Nhưng khả năng của tánh biết còn cao hơn nữa là có thể thấy được mọi trạng thái của tâm (tướng biết), như trong kinh Tứ Niệm Xứ đức Phật dạy khi tâm có tham, sân, si thấy có tham, sân, si; khi tâm không tham, sân, si thấy không có tham, sân, si; khi tâm động thấy động, khi tâm định thấy định; khi tâm trói buộc thấy trói buộc, khi tâm giải thoát thấy giải thoát v.v… Cho nên, không cần phải ở trong điều kiện “tịch tịnh tâm linh” hay “bặt dứt tư tưởng” mới thấy, mà tánh biết có khả năng thấy tướng biết ngay khi nó đang hoạt động bình thường. Eckhart tolle thường nhấn mạnh đưa tâm trở về an trú hiện tại, điều này là rất cần nhưng đó mới là tâm tịnh hoặc cao nhất là tri kiến thanh tịnh vẫn còn là trạm xe cuối, cần một bước nhảy nữa mới vào được thành “tánh biết chói sáng”.
Trường hợp của Ngọa Luân với Ngài Huệ Năng cho thấy rõ hai mức độ nêu trên:
“Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng,
Năng đoạn bách tư tưởng,
Đối cảnh tâm bất khởi,
Bồ đề nhật nhật trưởng.”
Có nghĩa
rằng tài năng tu của ông Ngọa Luân là có thể bặt dứt mọi tư tưởng nên đối cảnh
tâm không khởi nhờ vậy tuệ giác ngày mỗi tăng trưởng.
Ngài Huệ Năng vượt qua mọi điều kiện, chỉ thấy pháp tự nhiên:
“Huệ Năng một kỹ lưỡng,
Bất đoạn bách tư tưởng,
Đối cảnh tâm sổ khởi,
Bồ đề cánh ma trưởng”.
Huệ Năng
không cần tài năng cắt đứt mọi tư tưởng, đối cảnh tâm khởi nhiều, mà bồ-đề (tuệ
giác) vẫn không hề tăng giảm hay sinh diệt. Cách của Ngoạ Luân tu theo quan
niệm thiền định giải thoát. Còn cách Ngài Huệ Năng là tu theo Kiến Tánh, giác
ngộ Sự Thật như Vipassanā.
Thực Hành Tứ Niệm Xứ
Hỏi: Thưa Thầy phần cuối của bài kinh Tứ Niệm Xứ đức Phật dạy “ai thực hành Tứ Niệm Xứ này thì 7 ngày có thể chứng quả A-na-hàm hoặc A-la-hán” nhưng hiện nay có nhiều người hành rất lâu năm mà vẫn không chứng hay không thấy được gì. Có phải do phần đông hành “tinh tấn chánh niệm tỉnh giác” theo tướng biết chứ không phải tánh biết nên không thể chứng ngộ được?
- Con số 7 năm, 7 tháng, 7 ngày, 7 giờ… là để chỉ mức độ trọn vẹn của tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác. Thực ra, nhiều vị nghe đức Phật khai thị thì có thể chứng ngộ A-la-hán ngay, không cần qua thời gian, vì đức Phật dạy rằng Pháp (Dhammo) là có thể “thấy ngay (sandiṭṭhiko), không qua thời gian (akāliko), nhìn lại là thấy (Ehipassiko) ngay nơi thực tại (opanayiko) mỗi người trí tự chứng (paccattaṃ veditabbo viññūhi)”. Nhưng Ngài biết căn cơ trình độ mỗi người khác nhau nên không phải ai cũng có thể trọn vẹn “tinh tấn chánh niệm tỉnh giác” đúng mức ngay được.
Ngày xưa
khi được Phật khai thị thì người nghe liền trở về trọn vẹn tỉnh thức với thực
tại, không còn tạo tác để đạt tới hay trở thành gì khác ở tương lai, nên ngay
đó chứng ngộ Sự Thật. Ngày nay, người hành sở dĩ không trọn vẹn được với thực
tại vì luôn mong cầu sở đắc ở tương lai nên mải lăng xăng tạo tác để trở
thành mà đòi hỏi có thời gian, không thể chứng ngộ ngay được.
Trong thời đức Phật tại thế, có vị tỳ kheo hết sức chuyên cần nỗ lực tu hành mà không đạt được sở đắc nào, ông chán nản xin hoàn tục và tuyên bố rằng dù thực hành giáo pháp của đức Thế Tôn tinh cần đến đâu cũng không đem đến kết quả nào. Đức Phật nói khi ngươi xuất gia Như Lai đâu có hứa là nếu ngươi nỗ lực hết sức sẽ đạt được kết quả nào. Vì thực ra tu không phải là nỗ lực để thủ đắc điều gì mà chính là buông xuống mọi nỗ lực trở thành, chỉ trọn vẹn soi sáng thực tại để thấy ra Sự Thật thôi.
Thực tánh và thực tướng
Hỏi: Thưa Thầy, Trong sinh hoạt hàng ngày có nên phân biệt cái nào là thực tánh và thực tướng, xin Thầy cho vài thí dụ thực tế để dễ nhớ. Con cảm ơn Thầy?
- Tất cả
mọi hiện tượng duyên khởi gọi là tướng hữu vi thuộc sắc pháp nếu thấy đúng như
nó là, không thêm thắt khái niệm chế
định thuộc tục đế vào thì gọi là thực tướng. Còn tánh chất thực của các hiện
tượng đó, như tánh vô thường, khổ, vô ngã, gọi là thực tánh. Thực tánh rốt ráo
nhất của Tâm và Pháp là tịch tịnh. Người giác ngộ sống trong mọi hiện tượng
duyên khởi nhưng tâm vẫn tịch tịnh nên cũng thấy pháp tánh tịch tịnh. Thí dụ
như thấy bông hoa mà chỉ thấy như nó là chứ không hình thành khái niệm là thấy
thực tướng, còn thấy bông hoa ấy chỉ là tánh duyên khởi hay tánh
không của bốn
đại hoặc thấy vô thường, vô ngã thì đó là thực tánh.
Pháp và Giác ngộ Pháp
Hỏi: Thưa Thầy, con được biết thầy có bài kệ chứng ngộ là:
“Mẹ
ơi, con thưa nhé
Con
muốn mãi muôn đời
Là đứa con nhỏ bé
Vòi vĩnh mẹ, mẹ ơi!”
Khi chứng
ngộ là đã trở về với tánh biết tức con đã là mẹ mà tại sao lại muốn mãi muôn
đời vòi vĩnh mẹ? Kính xin Thầy giải thích.
- Thiên Chúa giáo có một lý thuyết hơi lạ mà rất đúng đó là mọi người có thể trở về với Thượng Đế nhưng không bao giờ là Thượng Đế được. Chính đức Phật cũng nói dù Như Lai ra đời hay không ra đời thì Pháp vẫn vậy (Pháp hay Thượng Đế là nguyên lý vận hành mọi sự mọi vật). Vậy một người có thể giác ngộ Pháp chứ không thể là Pháp. “Thiên Địa giai bị ư ngã” nhưng mỗi người thì không thể là Thiên Địa được. Trong Phật pháp chủ yếu là giác ngộ không ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả tức tất cả đều thuộc pháp tánh, nhưng mỗi pháp tướng vẫn mỗi khác, như cây ổi là cây ổi, cây xoài là cây xoài. Khi giác ngộ thì ổi không còn chấp ngã ổi, xoài không còn chấp ngã xoài chứ không phải ổi, xoài đều trở thành “Một”.
- Thiên Chúa giáo có một lý thuyết hơi lạ mà rất đúng đó là mọi người có thể trở về với Thượng Đế nhưng không bao giờ là Thượng Đế được. Chính đức Phật cũng nói dù Như Lai ra đời hay không ra đời thì Pháp vẫn vậy (Pháp hay Thượng Đế là nguyên lý vận hành mọi sự mọi vật). Vậy một người có thể giác ngộ Pháp chứ không thể là Pháp. “Thiên Địa giai bị ư ngã” nhưng mỗi người thì không thể là Thiên Địa được. Trong Phật pháp chủ yếu là giác ngộ không ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả tức tất cả đều thuộc pháp tánh, nhưng mỗi pháp tướng vẫn mỗi khác, như cây ổi là cây ổi, cây xoài là cây xoài. Khi giác ngộ thì ổi không còn chấp ngã ổi, xoài không còn chấp ngã xoài chứ không phải ổi, xoài đều trở thành “Một”.
Nói theo
dịch lý “thời bĩ tắc bĩ, thời hanh tắc hanh” vì khi
bĩ trọn vẹn với bĩ, thái trọn vẹn với thái, âm trọn vẹn với âm, dương trọn
vẹn với dương thì liền chứng ngộ được Thái Cực, thậm chí Vô Cực, nhưng bĩ,
thái, âm, dương vẫn là pháp tướng như nó đang là. Nếu vạn pháp trở về với
Thượng Đế mà trở thành Thượng Đế hết thì tất cả đều biến mất nhưng tất cả pháp
vẫn như nó đang là. Ví dụ một cơn sóng nhận ra nó đồng tánh nước với những cơn sóng
khác nhưng nó vẫn như nó đang là, chỉ không còn chấp “Ta là sóng” nữa
thôi. Giác ngộ cũng vậy, thấy ra chân đế nhưng vẫn không cần lìa tục đế. Nên
thầy cũng có bài kệ khác:
“Ta vốn từ Thiên Thu
Đứng bên bờ Giác Ngộ
Nhưng yêu đời bể khổ
Ta chọn kiếp phù du”
Tức khi
đã trở về với Mẹ Pháp, với Thiên Thu thì có làm kiếp phù du cũng vẫn thong
dong, vì đã tự tại
vô ngại.
Thấy ra nhân quả
Hỏi: Thưa sư ông, nếu chưa thể thấy quá khứ và vị lai để có thể thấy ra nhân quả, vậy có thể suy ra luật nhân quả từ nhân quả trực tiếp đang trải nghiệm hay không ạ?
- Suy luận cũng đúng nếu từ nhân quả đang trải nghiệm thực để suy ra luật nhân quả nói chung thì đó là chánh tư duy, cho nên trải nghiệm, chiêm nghiệm là cách thấy ra sự thật. Qua chiêm nghiệm có hai loại suy luận:
• Suy luận từ tự mình trải nghiệm và chiêm nghiệm trực tiếp để thấy ra
sự thật. Khi
thấy biết đúng thì sẽ có tư duy đúng nên chánh kiến, chánh tư duy luôn đi đôi
với nhau.
• Suy luận từ quan sát trải nghiệm của người khác, tuy không
tự mình trải nghiệm nhưng nếu khéo quan sát khách quan, trung thực cũng có thể
thấy ra sự thật
Tánh thấy và Tướng thấy
Hỏi: Kính xin Thầy phân biệt giữa tánh biết và tướng biết? Con cảm ơn Thầy ạ!
- Biết qua mắt tai mũi lưỡi thân ý là tướng biết. Tướng biết tuỳ duyên căn trần mà sinh diệt. Biết được tướng biết là tánh biết, tánh biết không lệ thuộc vào duyên căn trần nên không sinh diệt. Không sanh vì nếu sanh thì phải thường biết, không diệt vì nếu diệt thì lấy gì biết được.
Thái cực
Hỏi: Thưa sư ông dạy “trở về với thái cực” nghĩa là gì ạ?
- Khi hoàn toàn tinh tấn chánh niệm tỉnh giác tức trọn vẹn với thực tại, đó là trở về với thái cực. Đang đi thì đi là hiện tượng, đi mà hoàn toàn trọn vẹn với hiện tượng đi tức bắt gặp thực tánh chân đế, đó là thái cực. Hiện tượng đi là sinh diệt mà khi trọn vẹn với hiện tượng đi tức là không sinh diệt. Cho nên, “Khi xúc chạm việc đời” là hiện tượng. “Tâm không động không sầu / Tự tại và vô nhiễm” là thái cực.
Tam học
Hỏi: Xin sư ông chỉ dạy về tam học ạ?
- Tam học là giới định tuệ:
Giới là hành động nói năng đúng tốt, thanh tịnh, không hại mình hại người. Định là thái độ tâm rỗng lặng, trầm tĩnh, an nhiên tự tại, không vọng động. Tuệ là trí sáng suốt chiếu soi, thấy rõ trong ngoài thân thọ tâm pháp. Khi tinh tấn chánh niệm tỉnh giác được thể hiện qua
-
Thận
trọng chú tâm quan sát,
-
Trở về
trọn vẹn tỉnh thức,
-
Trong
lành định tỉnh sáng suốt,
-
Rỗng rang
lặng lẽ trong sáng
đều là tuỳ
hoàn cảnh, tuỳ tình huống mà biểu hiện giới định tuệ một cách uyển chuyển, chính
xác.