Công thức về căn trần trong Vi Diệu Pháp được sắp xếp rất rõ. Tại sao có thứ tự mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý? Đó cũng là theo thiên nhiên. Bắt đầu là mắt, thường thấy rất xa, có thể đến cuối chân trời. Tai cũng nghe được các tiếng động từ rất xa, đến khi không còn bắt âm thanh được nữa, nhưng xa không bằng mắt. Mũi đánh được hơi, bắt được mùi từ xa nhờ có gió thuận chiều, nếu gió ngược chiều thì chỉ ngửi được các mùi rất gần mũi. Lưỡi phải có vật thực thật gần, phải qua nhai, có nước miếng mới nếm được vị. Thân phải thật sát với vật đụng mới có cảm giác xúc chạm. Còn tâm thì ở khắp năm căn trần trên: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, đâu cũng có tâm. Nhưng ta phải ghi nhận sáu căn trần tiếp xúc nhau ngay giây phút hiện tại mới thấy rõ được bản chất chúng, mới thấy chúng là vô thường, khổ, vô ngã.
Khi chánh niệm và chánh định được vững mạnh, ta sẽ nhận rõ được tính cánh thiên nhiên của các đối tượng. Thí dụ ta thấy được yếu tố gió không những chỉ ở trong chuyển động phồng xẹp của bụng mà còn ở các nơi khác trong toàn thân. Theo Vi Diệu Pháp có sáu loại gió trong thân:
1. Gió lên: khi nấc cục, nhảy mũi, ho v.v….
2. Gió xuống: khi tiểu tiện, đại tiện
3. Gió ngoài ruột, bao tử
4. Gió trong ruột, bao tử (khi đầy hơi…)
5. Gió do tim đập đưa máu huyết lưu thông khắp cả cơ thể
6. Gió vào ra (nơi mũi, phồng xẹp)
Hành giả khi theo dõi thuần thục gió phồng xẹp (loại gió thứ 6 trên) sẽ cảm nhận rõ ràng được loại gió thứ 5 lưu chuyển khắp toàn thân gọi là gió xuyên thấu. Trong kinh nói rõ là người nào kinh nghiệm được sự sanh diệt của các đối tượng thân tâm thì các bệnh nhẹ tự nhiên hết. Còn nếu đạt được tuệ xả hành thì một số các bịnh nặng sẽ được tiêu trừ, vì tất cả cơ quan nội tạng làm việc nhịp nhàng thông suốt như một guồng máy nhờ sức rung động của gió xuyên thấu. Mắt mở nhắm, miệng nói chuyện, tim đập… tất cả đều là tứ đại làm việc – nhất là gió – nhưng con người lại thường cho rằng do tôi hay do mắt, miệng, tim của tôi làm việc. Đất, nước, gió, lửa, tâm hay biết… đều là pháp bảo hợp thành sự sống. Sống là hay biết.
Đức Phật chỉ cho ta cách hay biết mà không vướng tham sân si, để vượt ra sanh tử luân hồi. Đó là quán lục căn, lục trần, để pháp bảo làm việc. Khi thân này còn thọ mạng thì phải săn sóc nó để cái tâm được nương vào nó, nhưng không ghét, không thương nó thái quá. Khi thân hoại, mạng chung thì không sân hận, tiếc nuối vì sân hận tiếc nuối thân, nó sẽ trở lại tái sinh với ta. Không phải chờ đợi đến lúc chết mới thành một vị giác ngộ giải thoát mà một giây phút thấy rõ được sự thật là ta đang sống giải thoát. Rồi hai, ba, bốn, năm… giây phút ấy được liên tiếp là ta sống không quên. Tâm không quên nên không mệt, không đau vì bị vi trùng tham sân si tấn công chi phối mình. Nhờ không quên, ta sống vui hòa cùng với thiên nhiên
Ba La Mật
Trong hàng đệ tử của Đức Phật có nhiều vị nhờ ba la mật (pārāmī) đã vun vồi từ bao nhiêu kiếp mà đạt được các phẩm hạnh đặc biệt khác nhau về nhiều mặt và được gọi là bậc đệ nhất. Chẳng hạn như ngài Xá Lợi Phất là bậc đệ nhất trí tuệ, ngài Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông, ngài A Nậu Lâu Đà là đệ nhất nhập thiền… Hiểu được ba la mật là do luật nhân quả thì ta sẽ nỗ lực thực hiện các mục đích mà ta hằng mong muốn ngay trong kiếp sống này. Các hành giả ngồi thiền ở đây không phải là lần đầu tiên mà do đã tập ngồi như vậy từ bao nhiêu kiếp trước, đã gặp Phật Pháp nhiều đời trong quá khứ nên mới có niềm tin và có tâm quyết định hành thiền Minh Sát Niệm Xứ. Mỗi chúng ta đều có ít nhiều ba la mật và nay tiếp tục thực hành giáo pháp để vun bồi thêm ba la mật đó. Trên đường thực hành tìm giải thoát, ai ai cũng ít nhiều gặp trở ngại, thử thách. Tuy cùng thực hành một phương pháp Bát Chánh Đạo giống nhau, nhưng mỗi thiền sinh có mỗi trạng thái hoặc kinh nghiệm khác nhau. Trong kinh có bốn hạng hành giả:
1. Hạng hành khó, giác ngộ chậm
2. Hạng hành khó, nhưng giác ngộ mau
3. Hạng hành dễ, nhưng giác ngộ chậm
4. Hạng hành dễ, giác ngộ mau
Cá nhân Sư thuộc về hạng thứ nhất, trong lúc các bạn đồng tu với Sư tiến bộ rất nhanh, có người chỉ một vài năm đã thành thiền sư. Năm 1980, khi viếng thăm Miến Điện, Sư đến Mandalay và nghỉ ở nhà hai mẹ con một cư sĩ. Bà mẹ là một triệu phú, rủ người con đi hành thiền ở trung tâm Mahasi. Người con hành thiền thoải mái, suông sẻ, kinh nghiệm rất mau, chỉ trong hai tuần đã ghi nhận được các cơn đau mạnh biến tan nhanh chóng. Trong khi đó bà mẹ phải mất đến sáu tuần mới hiểu được điều này qua kinh nghiệm sinh diệt nhanh chóng của các cơn đau. Cả ba trường hợp của
Sư và hai mẹ con thiền sinh trên cho ta thấy mỗi người có ba la mật riêng.
Vào thời Đức Phật, có trường hợp ngài Bahiya đắc đạo quả Bất Lai vô cùng nhanh chóng do quán niệm thấy tất cả các đối tượng đang sanh khởi đều ở ngoài thân. Trước đó, Bahiya là một người lái buôn, một hôm đi thuyền bị chìm, may mắn ôm được khúc cây trôi dạt đến một bãi biển rất xa. Không còn quần áo và quá sợ hãi cái chết, ngài lấy mảnh vỏ cây quấn lại che thân và quyết chí tu hành. Dân chúng trong vùng rất kính mộ phẩm hạnh của ngài, cúng dường ngài như một vị A La Hán, và chính ngài cũng tự nghĩ như vậy. Bấy giờ có một vị chư thiên – trước đó là bà con với Bahiya – thấy vậy liền đến mách bảo rằng ngài chưa đắc A La Hán đâu và nên đi đến thọ giáo với Đức Phật Cồ Đàm để học phương pháp đạt giác ngộ, giải thoát. Nghe vậy Bahiya liền đi suốt một đêm quyết tìm gặp Đức Cồ Đàm – lúc ấy đang trì bình khất thực ở thành Xá Vệ. Ngài Bahiya quỳ xuống ba lần xin Đức Phật dạy giáo pháp, nhưng Đức Phật đều từ chối vì thời gian không thích nghi. Sau cùng, vì quán thấy tuổi thọ của Bahiya không còn bao lâu cho nên Đức Thế Tôn từ bi chỉ dạy: “Này Bahiya, con nên quán rằng: trong khi thấy chỉ có sự thấy; trong khi nghe chỉ có sự nghe; trong khi ngửi, nếm, đụng, suy nghĩ, chỉ có sự hay biết về mùi, vị, xúc chạm và suy nghĩ.” Truyền dạy chỉ một câu pháp xong, Đức Phật tiếp tục đi trì bình. Đức Thế Tôn vừa dứt câu pháp ấy, Bahiya liền chứng ngộ đạo quả. Sau đó, khi còn đang nghĩ cách tìm y bát để xin xuất gia, nhập Tăng đoàn, thì bỗng nhiên ngài bị một con bò mẹ – vì muốn bảo vệ cho đứa con – đến húc nên ngài phải chấm dứt thọ mạng. Trên đường khất thực trở về, Đức Phật thấy vậy bèn bảo các vị tỳ kheo đem xác vị đồng phạm hạnh này hỏa táng theo đúng nghi thức một nhà sư. Hoàn tất công việc xong, chư tăng tụ hội lại hỏi Đức Thế Tôn về trường hợp của ngài Bahiya. Đức Phật dạy: “Bahiya là người học và hành đạo mà không hề gây cho Như Lai một chút khó khăn bận tâm nào, chỉ gặp một lần, chỉ nghe một câu rồi thực hành tức khắc mà đắc đạo quả.” Như vậy, Bahiya là bậc đệ nhất về đạt giác ngộ ngay sau một thời pháp ngắn.
Sư sở dĩ tu hành lâu thành vì cứ ôm chấp các đối tượng vào trong, không quán thấy được là chúng đều ở bên ngoài như ngài Bahiya. Thấy, nghe không chịu niệm chỉ là thấy, nghe, mà còn thêm thắt nhiều điều khiến vọng tưởng chất chồng lên vọng tưởng. Do tưởng điên đảo nên kiến điên đảo, vì ta không chịu để đối tượng bên ngoài mà còn đồng hóa nó với ta, của ta. Nhiệm vụ của thiền sinh là niệm, tiếp tục niệm… Niệm chưa xong thì đối tượng đã đi mất rồi. Phải niệm liên tục mới thấy được các đối tượng đều ở bên ngoài, hết sanh rồi diệt. Một khóa thiền thường chưa đủ để vun bồi niềm tin và định lực. Cần cố gắng hành thêm nhiều khóa mới thấy sự tiến bộ. Hành thiền Minh Sát Niệm Xứ là cách vun bồi tất cả mười ba la mật một cách đầy đủ và hữu hiệu nhất. Trong đó tinh tấn ba la mật rất quan trọng, làm tăng trưởng chánh niệm, chánh định, đưa đến chánh tư duy (ly dục – tức ý muốn xuất gia, ly hận và ly hại) và chánh kiến để giải thoát khỏi mọi khổ đau
Buông bỏ
Khi ngồi thiền bị đau nơi thân và đã chú tâm ghi nhận cảm giác đau mà không giảm, hành giả nên niệm qua tâm, ghi nhận sự khó chịu, bức xúc của tâm như một hình thức tạm băng bó chỗ đau. Trước đó, do tâm chấp thân này là của ta nên thấy thân đau càng lúc càng tăng. Nếu chú tâm ghi nhận tâm đau, khổ thọ sẽ giảm từ từ. Đó là cách niệm tâm của Thiền Minh Sát Niệm Xứ. Cách tốt nhất là giữ tâm làm thinh trong khi niệm thân đau để thấy rõ bản chất của đau. Khi có định tâm vững mạnh thì sự vượt qua cơn đau rất dễ dàng. Ở trạng thái định, tâm không suy nghĩ dù bị đau, giống như khi giải phẫu, nhờ thuốc mê nên không suy nghĩ hay không lo sợ. Ngược lại, khi suy nghĩ, tâm không định và còn bị mất ngủ.
Pháp hành Minh Sát Niệm Xứ tập cho ta phát triển sự định tâm để nhận rõ được các pháp hữu vi luôn luôn thay đổi và khổ. Trong khóa thiền, khi nghe giảng là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý này không phải của mình, ta chới với không muốn nghe, không muốn tin. Thêm vào đó, cũng không dễ dàng để chấp nhận ngay rằng sự sanh là do quên, do thất niệm và sự không sanh là không còn già, đau, chết. Chỉ khi bắt đầu thấy rõ được vô thường, khổ, vô ngã thì cái tôi, cái ta mới dần dần ốm yếu đi và trở nên bất lực. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không biết đến lúc nào mình mới buông bỏ được nó.
Buông bỏ được mới thật sự an vui. Chỉ cần buông bỏ một chút quá khứ hay tương lai là có thể có được một giấc ngủ ngon rồi. Khi kinh nghiệm thiền tập được chín muồi, hành giả sẽ thấy thân tâm thay đổi rất nhanh và đạt được Tuệ Sanh Diệt. Thường ta thấy một năm trôi qua rất lâu, một tháng, một tuần cũng khá lâu, ngay cả một ngày, một giờ, một phút cũng qua từ từ nên ta không cảm nhận được sự cấp bách. Nhưng khi chú tâm nhìn kim đồng hồ nhảy từng giây một, ta mới thấy vô thường xảy ra quá nhanh. Khi đạt Tuệ Sanh Diệt, với chánh niệm và chánh định thật mạnh mẽ, hành giả thấy sự sanh diệt của thân tâm hay vô thường xảy ra trong từng sát na một cách vô cùng nhanh chóng. Một hơi thở, một vọng tưởng, trăm ngàn hơi thở, trăm ngàn vọng tưởng đến rồi đi thật nhanh chóng giống như từng hình ảnh một được chiếu nhanh trên màn hình tạo thành ảo tưởng liên tục. Ta sanh rồi chết nhanh chóng, liên tục, không ngừng nghỉ trong từng sát na, nhưng không hề hiểu, không hề thấy. Chỉ bằng cách phát triển chánh niệm và chánh định thật mạnh mẽ như ở Tuệ Sanh Diệt, ta mới thực sự thấy biết được thân tâm sanh khởi và hoại diệt nhanh như thế nào.
Tuệ Sanh Diệt có thể khắc phục các cơn đau thân. Nhưng khi kinh nghiệm sanh diệt ngày càng nhanh đến độ ở Tuệ Diệt kế tới chỉ còn thấy sự hoại diệt, ta cảm thấy sợ hãi, chán nản danh sắc giống như khi nhìn cảnh nhà đang cháy sắp sụp đổ ta mới bắt đầu chạy xa, không còn muốn ở lại chỗ nguy hiểm ấy nữa. Ở ngoài đời, lâu lâu khi nghe ai chết, hoặc khi đưa ai vào nghĩa địa, ta thấy buồn, thấy sợ, thấy chán. Nhưng vừa ra khỏi nghĩa địa là đã quên mất sự chết và nghĩ ngay rằng mình hãy còn rất xa cái chết.
Khi ngồi thiền trong chánh định, chú tâm nơi nào cũng thấy sanh diệt, thấy sự chết nơi ấy. Rồi thấy chán nản, sợ hãi sự vô thường, sự khổ, và muốn giải thoát ra khỏi vòng luân hồi trói buộc này. Sau giây phút khẩn trương đó, tâm trở lại thăng bằng, hành thiền suông sẻ, không buồn không lo, không còn thiên về thích hay không thích. Đây là giai đoạn tốt của Thiền Minh Sát Niệm Xứ trước khi tiến tới Tuệ Xả và các tuệ giác cao hơn nữa. Rồi từ phàm chuyển sang Thánh và đến lúc đó mới thực sự buông bỏ các trói buộc của thân tâm và bứng nhổ dần mọi gốc rễ của vô minh và tham ái...
Trong hàng đệ tử của Đức Phật có nhiều vị nhờ ba la mật (pārāmī) đã vun vồi từ bao nhiêu kiếp mà đạt được các phẩm hạnh đặc biệt khác nhau về nhiều mặt và được gọi là bậc đệ nhất. Chẳng hạn như ngài Xá Lợi Phất là bậc đệ nhất trí tuệ, ngài Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông, ngài A Nậu Lâu Đà là đệ nhất nhập thiền… Hiểu được ba la mật là do luật nhân quả thì ta sẽ nỗ lực thực hiện các mục đích mà ta hằng mong muốn ngay trong kiếp sống này. Các hành giả ngồi thiền ở đây không phải là lần đầu tiên mà do đã tập ngồi như vậy từ bao nhiêu kiếp trước, đã gặp Phật Pháp nhiều đời trong quá khứ nên mới có niềm tin và có tâm quyết định hành thiền Minh Sát Niệm Xứ. Mỗi chúng ta đều có ít nhiều ba la mật và nay tiếp tục thực hành giáo pháp để vun bồi thêm ba la mật đó. Trên đường thực hành tìm giải thoát, ai ai cũng ít nhiều gặp trở ngại, thử thách. Tuy cùng thực hành một phương pháp Bát Chánh Đạo giống nhau, nhưng mỗi thiền sinh có mỗi trạng thái hoặc kinh nghiệm khác nhau. Trong kinh có bốn hạng hành giả:
1. Hạng hành khó, giác ngộ chậm
2. Hạng hành khó, nhưng giác ngộ mau
3. Hạng hành dễ, nhưng giác ngộ chậm
4. Hạng hành dễ, giác ngộ mau
Cá nhân Sư thuộc về hạng thứ nhất, trong lúc các bạn đồng tu với Sư tiến bộ rất nhanh, có người chỉ một vài năm đã thành thiền sư. Năm 1980, khi viếng thăm Miến Điện, Sư đến Mandalay và nghỉ ở nhà hai mẹ con một cư sĩ. Bà mẹ là một triệu phú, rủ người con đi hành thiền ở trung tâm Mahasi. Người con hành thiền thoải mái, suông sẻ, kinh nghiệm rất mau, chỉ trong hai tuần đã ghi nhận được các cơn đau mạnh biến tan nhanh chóng. Trong khi đó bà mẹ phải mất đến sáu tuần mới hiểu được điều này qua kinh nghiệm sinh diệt nhanh chóng của các cơn đau. Cả ba trường hợp của
Sư và hai mẹ con thiền sinh trên cho ta thấy mỗi người có ba la mật riêng.
Vào thời Đức Phật, có trường hợp ngài Bahiya đắc đạo quả Bất Lai vô cùng nhanh chóng do quán niệm thấy tất cả các đối tượng đang sanh khởi đều ở ngoài thân. Trước đó, Bahiya là một người lái buôn, một hôm đi thuyền bị chìm, may mắn ôm được khúc cây trôi dạt đến một bãi biển rất xa. Không còn quần áo và quá sợ hãi cái chết, ngài lấy mảnh vỏ cây quấn lại che thân và quyết chí tu hành. Dân chúng trong vùng rất kính mộ phẩm hạnh của ngài, cúng dường ngài như một vị A La Hán, và chính ngài cũng tự nghĩ như vậy. Bấy giờ có một vị chư thiên – trước đó là bà con với Bahiya – thấy vậy liền đến mách bảo rằng ngài chưa đắc A La Hán đâu và nên đi đến thọ giáo với Đức Phật Cồ Đàm để học phương pháp đạt giác ngộ, giải thoát. Nghe vậy Bahiya liền đi suốt một đêm quyết tìm gặp Đức Cồ Đàm – lúc ấy đang trì bình khất thực ở thành Xá Vệ. Ngài Bahiya quỳ xuống ba lần xin Đức Phật dạy giáo pháp, nhưng Đức Phật đều từ chối vì thời gian không thích nghi. Sau cùng, vì quán thấy tuổi thọ của Bahiya không còn bao lâu cho nên Đức Thế Tôn từ bi chỉ dạy: “Này Bahiya, con nên quán rằng: trong khi thấy chỉ có sự thấy; trong khi nghe chỉ có sự nghe; trong khi ngửi, nếm, đụng, suy nghĩ, chỉ có sự hay biết về mùi, vị, xúc chạm và suy nghĩ.” Truyền dạy chỉ một câu pháp xong, Đức Phật tiếp tục đi trì bình. Đức Thế Tôn vừa dứt câu pháp ấy, Bahiya liền chứng ngộ đạo quả. Sau đó, khi còn đang nghĩ cách tìm y bát để xin xuất gia, nhập Tăng đoàn, thì bỗng nhiên ngài bị một con bò mẹ – vì muốn bảo vệ cho đứa con – đến húc nên ngài phải chấm dứt thọ mạng. Trên đường khất thực trở về, Đức Phật thấy vậy bèn bảo các vị tỳ kheo đem xác vị đồng phạm hạnh này hỏa táng theo đúng nghi thức một nhà sư. Hoàn tất công việc xong, chư tăng tụ hội lại hỏi Đức Thế Tôn về trường hợp của ngài Bahiya. Đức Phật dạy: “Bahiya là người học và hành đạo mà không hề gây cho Như Lai một chút khó khăn bận tâm nào, chỉ gặp một lần, chỉ nghe một câu rồi thực hành tức khắc mà đắc đạo quả.” Như vậy, Bahiya là bậc đệ nhất về đạt giác ngộ ngay sau một thời pháp ngắn.
Sư sở dĩ tu hành lâu thành vì cứ ôm chấp các đối tượng vào trong, không quán thấy được là chúng đều ở bên ngoài như ngài Bahiya. Thấy, nghe không chịu niệm chỉ là thấy, nghe, mà còn thêm thắt nhiều điều khiến vọng tưởng chất chồng lên vọng tưởng. Do tưởng điên đảo nên kiến điên đảo, vì ta không chịu để đối tượng bên ngoài mà còn đồng hóa nó với ta, của ta. Nhiệm vụ của thiền sinh là niệm, tiếp tục niệm… Niệm chưa xong thì đối tượng đã đi mất rồi. Phải niệm liên tục mới thấy được các đối tượng đều ở bên ngoài, hết sanh rồi diệt. Một khóa thiền thường chưa đủ để vun bồi niềm tin và định lực. Cần cố gắng hành thêm nhiều khóa mới thấy sự tiến bộ. Hành thiền Minh Sát Niệm Xứ là cách vun bồi tất cả mười ba la mật một cách đầy đủ và hữu hiệu nhất. Trong đó tinh tấn ba la mật rất quan trọng, làm tăng trưởng chánh niệm, chánh định, đưa đến chánh tư duy (ly dục – tức ý muốn xuất gia, ly hận và ly hại) và chánh kiến để giải thoát khỏi mọi khổ đau
Buông bỏ
Khi ngồi thiền bị đau nơi thân và đã chú tâm ghi nhận cảm giác đau mà không giảm, hành giả nên niệm qua tâm, ghi nhận sự khó chịu, bức xúc của tâm như một hình thức tạm băng bó chỗ đau. Trước đó, do tâm chấp thân này là của ta nên thấy thân đau càng lúc càng tăng. Nếu chú tâm ghi nhận tâm đau, khổ thọ sẽ giảm từ từ. Đó là cách niệm tâm của Thiền Minh Sát Niệm Xứ. Cách tốt nhất là giữ tâm làm thinh trong khi niệm thân đau để thấy rõ bản chất của đau. Khi có định tâm vững mạnh thì sự vượt qua cơn đau rất dễ dàng. Ở trạng thái định, tâm không suy nghĩ dù bị đau, giống như khi giải phẫu, nhờ thuốc mê nên không suy nghĩ hay không lo sợ. Ngược lại, khi suy nghĩ, tâm không định và còn bị mất ngủ.
Pháp hành Minh Sát Niệm Xứ tập cho ta phát triển sự định tâm để nhận rõ được các pháp hữu vi luôn luôn thay đổi và khổ. Trong khóa thiền, khi nghe giảng là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý này không phải của mình, ta chới với không muốn nghe, không muốn tin. Thêm vào đó, cũng không dễ dàng để chấp nhận ngay rằng sự sanh là do quên, do thất niệm và sự không sanh là không còn già, đau, chết. Chỉ khi bắt đầu thấy rõ được vô thường, khổ, vô ngã thì cái tôi, cái ta mới dần dần ốm yếu đi và trở nên bất lực. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không biết đến lúc nào mình mới buông bỏ được nó.
Buông bỏ được mới thật sự an vui. Chỉ cần buông bỏ một chút quá khứ hay tương lai là có thể có được một giấc ngủ ngon rồi. Khi kinh nghiệm thiền tập được chín muồi, hành giả sẽ thấy thân tâm thay đổi rất nhanh và đạt được Tuệ Sanh Diệt. Thường ta thấy một năm trôi qua rất lâu, một tháng, một tuần cũng khá lâu, ngay cả một ngày, một giờ, một phút cũng qua từ từ nên ta không cảm nhận được sự cấp bách. Nhưng khi chú tâm nhìn kim đồng hồ nhảy từng giây một, ta mới thấy vô thường xảy ra quá nhanh. Khi đạt Tuệ Sanh Diệt, với chánh niệm và chánh định thật mạnh mẽ, hành giả thấy sự sanh diệt của thân tâm hay vô thường xảy ra trong từng sát na một cách vô cùng nhanh chóng. Một hơi thở, một vọng tưởng, trăm ngàn hơi thở, trăm ngàn vọng tưởng đến rồi đi thật nhanh chóng giống như từng hình ảnh một được chiếu nhanh trên màn hình tạo thành ảo tưởng liên tục. Ta sanh rồi chết nhanh chóng, liên tục, không ngừng nghỉ trong từng sát na, nhưng không hề hiểu, không hề thấy. Chỉ bằng cách phát triển chánh niệm và chánh định thật mạnh mẽ như ở Tuệ Sanh Diệt, ta mới thực sự thấy biết được thân tâm sanh khởi và hoại diệt nhanh như thế nào.
Tuệ Sanh Diệt có thể khắc phục các cơn đau thân. Nhưng khi kinh nghiệm sanh diệt ngày càng nhanh đến độ ở Tuệ Diệt kế tới chỉ còn thấy sự hoại diệt, ta cảm thấy sợ hãi, chán nản danh sắc giống như khi nhìn cảnh nhà đang cháy sắp sụp đổ ta mới bắt đầu chạy xa, không còn muốn ở lại chỗ nguy hiểm ấy nữa. Ở ngoài đời, lâu lâu khi nghe ai chết, hoặc khi đưa ai vào nghĩa địa, ta thấy buồn, thấy sợ, thấy chán. Nhưng vừa ra khỏi nghĩa địa là đã quên mất sự chết và nghĩ ngay rằng mình hãy còn rất xa cái chết.
Khi ngồi thiền trong chánh định, chú tâm nơi nào cũng thấy sanh diệt, thấy sự chết nơi ấy. Rồi thấy chán nản, sợ hãi sự vô thường, sự khổ, và muốn giải thoát ra khỏi vòng luân hồi trói buộc này. Sau giây phút khẩn trương đó, tâm trở lại thăng bằng, hành thiền suông sẻ, không buồn không lo, không còn thiên về thích hay không thích. Đây là giai đoạn tốt của Thiền Minh Sát Niệm Xứ trước khi tiến tới Tuệ Xả và các tuệ giác cao hơn nữa. Rồi từ phàm chuyển sang Thánh và đến lúc đó mới thực sự buông bỏ các trói buộc của thân tâm và bứng nhổ dần mọi gốc rễ của vô minh và tham ái...
(Thiền sư Kim Triệu)