Cái thấy nội tại là một kinh nghiệm được thực chứng. Không có nó, tuệ giác không thể phát sinh.
Điều đó đúng đối với những vấn đề bình thường trong cuộc sống, cũng như sự hiểu biết sâu sắc về giáo lý của Đức Phật. Thí dụ, có ai đó không vừa lòng với ta, nếu ta không tìm hiểu tại sao, thì sự hiểu lầm giữa ta và người đó sẽ không bao giờ chấm dứt. Ta cần phải nhận rằng hẳn mình đã nói hay làm gì đó khiến người kia phật lòng. Đây chỉ là vấn đề nhỏ nhưng nó cũng cho thấy ta cần có sự hiểu biết về kinh nghiệm của mình.
Nếu ta nghĩ rằng những điều đó xảy ra ở bên ngoài, không dính dáng tới ta, thì ta không thể thay đổi cách hành xử của mình. Pháp hành có nghĩa là không ngừng chuyển hóa bản thân để đạt đến chỗ hoàn hảo. Nếu ta không thể chuyển đổi thì hóa ra công lao hoằng pháp của Đức Phật là vô ích sao?
Nếu ta không hoàn toàn chú tâm đến từng chi tiết, ta sẽ chẳng bao giờ chuyển hóa đến chỗ tuyệt đối. Chú tâm đến chi tiết là cốt lõi của chánh niệm. Tuy nhiên, phần đông không được hướng dẫn hoặc không thực sự thực hành chánh niệm. Hiểu biết qua sách vở là một chuyện, thực hành lại là chuyện khác. Chánh niệm là cốt lõi của trí tuệ, vì không có chánh niệm ta sẽ không thể nhìn thấu suốt vấn đề gì.
Theo dõi hơi thở có nghĩa là “biết chính xác”. Chánh niệm không phán đoán, phân biệt, vẽ vời. Chánh niệm biết khi nào tâm định, khi nào tâm phóng đi và khi nào nó trở nên bình an. Sự chánh niệm hoàn hảo biết điều gì đang xảy ra trong từng giây phút.
Khi ta chú tâm đến các cảm xúc, chỉ quan sát chứ không phản ứng lại với chúng, là ta đang hành niệm thứ hai của Tứ niệm xứ, vedananupassana (niệm thọ). Khi ta biết mình đang suy tưởng,cittanupassana (niệm tâm) và khi ta biết nội dung suy tưởng, đó là dhammanupassana (niệm pháp). Nếu không chú tâm, ta không thực sự tỉnh thức. Ta cần luôn thực tập sự chú tâm rõ ràng vào các đối tượng này.
Khi hành thiền tâm có thể trở nên an định. Nếu có cảm giác an bình, ta phải biết điều đó rõ ràng. Nếu không thể nhận thức điều gì đang xảy ra, ta không thể tiến xa hơn, vì ta không biết mình đang ở đâu. Một chi tiết quan trọng của việc hành thiền là biết chính xác điều gì đang xảy ra, và có thể mô tả lại điều đó sau khi nó xảy ra. Điều mô tả là kinh nghiệm đã được nếm trải. Nó tự động xảy ra theo sau sự việc. Điều này đúng đối với bất cứ trạng thái tâm nào hay bất cứ cảm xúc nào.
Pháp là các trải nghiệm của Đức Phật được mô tả lại. Nếu ta không thể làm thế đối với chính những trải nghiệm của bản thân, là ta sống trong hệ thống tín ngưỡng, có thể khiến tâm ta mờ mịt. Trong khi thiền là để làm cho tâm sắc bén. Tâm chánh niệm là chiếc búa đã được mài, với lưỡi bén, mỏng, nhọn, có thể cắt xuyên qua tất cả mọi vọng tưởng của ta. Khi ngồi thiền, ta có thể biết các chướng ngại trong tâm: như là tâm ù lì không biết việc gì đang xảy ra, hay tâm mê, tâm phóng dật, tâm sân không muốn vâng lời. Đó là chánh niệm về tâm pháp.
Như mọi chúng sanh khác, tâm ta thường phóng dật, luôn tìm cách tránh khổ và mong cầu hạnh phúc. Điều này thật khó thay đổi. Nếu ta quán sát thấy mình đang chống lại cái khổ, tìm kiếm điều dễ chịu, ta phải biết đó chỉ là cách hành xử theo thói quen bình thường. Đó là cách vận hành của thế giới này, là cách nền kinh tế này hoạt động. Nhưng bạn có thấy ai thực sự hạnh phúc trong đó không? Đó là một cuộc phiêu lưu vô vọng, chắc chắn thất bại, vậy mà tất cả mọi người vẫn còn cố gắng chạy theo. Tất cả đều đã cố gắng đủ lâu rồi, giờ ta có thể buông bỏ, ít nhất là trong thời gian ngồi thiền.
Ta có thể thoát khổ (dukkha), nhưng không phải bằng cách loại bỏ các cảm thọ khó chịu, mà chỉ bằng cách loại bỏ các phản ứng đối với chúng. Đây là cửa chính để bước vào con đường tâm linh. Nếu ta không hiểu rõ điều này, thì mọi thứ đều thất bại. Chúng ta sẽ không thoát khỏi sự khó chịu của việc ngồi lâu, của muỗi mòng, hay của bất cứ khổ thọ nào mà ta gặp phải. Tất cả đều do tâm tạo, do tâm phản ứng lại. Dukkha (khổ) sẽ biến mất khi các phản ứng của ta biến mất.
Trừ khi ta biết chính mình là người tạo ra cái khổ cho mình, thì khó thể nào ta thấy Pháp. Chúng ta bắt đầu biết tu khi không còn đổ lỗi cho hoàn cảnh, tha nhân, thể chế chính trị, kinh tế hay thời tiết. Chúng ta sẽ chỉ nhìn thấy các phản ứng của bản thân. Dĩ nhiên các phản ứng này không phải tất cả đều khả ái, thiện lành ngay. Phải cần có thời gian. Nhưng ít nhất ta có thể bắt đầu làm gì đó cho bản thân.
Chánh niệm không chỉ cần có mặt trong khi ta hành thiền, mà cả lúc ta hành động, cảm thọ hay nghĩ suy trong đời sống hàng ngày. Khi thức, chánh niệm phải là đối tượng chính yếu của ta. Ta phải tự biết mình. Chỉ khi đó ta mới mong một ngày hiểu được thế giới. Vũ trụ chính là thân và tâm này. Khi ta biết được thân và tâm này là gì, ta sẽ biết về vũ trụ và những chân lý tiềm ẩn trong đó. Tất cả rõ ràng đều giống nhau, nhưng ta phải biết nó là gì.
Khi rời khỏi chiếu thiền, ta phải tỉnh thức nơi mắt nhìn, thân chuyển động, về tất cả những gì ta đang làm. Tại sao? Trước hết, điều đó giúp ta không nghĩ ác, không tưởng điều bất thiện. Nó giúp cho việc hành thiền của ta dễ dàng hơn. Tâm cần được kiểm soát, không được để nó chạy loanh quanh. Tâm bình thường, không rèn luyện giống như một con bò hoang dại thả rông trong vườn nhà. Chỉ trong chớp mắt là nó sẽ phá tan hoang khu vườn. Tâm của ta cũng thế. Nó cũng làm cho thế giới ta sống trở nên một bãi chiến trường. Không cần phải đọc báo ta mới biết những điều đó. Chúng có mặt ở khắp nơi, ngay từ tâm ta mà ra. Tất cả chúng ta đều ở trong đó, trừ các bậc giác ngộ. Tâm hoang dại không thể thiền. Ta phải bắt nó đứng lại, kiểm soát, ngăn chặn nó. Mỗi khi nó phóng chạy, ta dùng chánh niệm để bắt nó quay về, giống như huấn luyện con ngựa hoang, nếu không, nó không làm lợi ích gì cho ai cả. Nhưng khi đã được thuần hóa, huấn luyện, ngựa sẽ rất lợi ích. Điều này cũng đúng với tâm biết bao!
Chánh niệm về thân có nghĩa là ta biết tất cả mọi chuyển động nơi thân. Khi quán sát bản thân, ta sẽ thấy có tâm và thân. Tâm ra lệnh, và thân tuân hành. Ta cũng nhận thấy rằng đôi khi thân không thể vâng lời tâm vì nó yếu đuối. Đây là cửa đầu tiên để vào thiền tuệ, khi biết rằng có thân, tâm và tâm thì quan trọng hơn. Cái khác biệt giữa người có tu tập và người không là sự thực chứng.
Chánh niệm về các chuyển động của thân cũng liên quan tới các đối tượng chánh niệm khác. Thí dụ, nếu ta đang lo nghĩ đến tương lai thì ta không còn để ý đến thân nữa; thay vào đó ta có thể chú tâm đến quá trình tư duy. Ta biết mình đang nghĩ suy, đang tạo nghiệp. Các tư tưởng là tâm hành, cũng như nghiệp hành. Chúng ta là chủ nhân của nghiệp mình. Chúng ta suy nghĩ như thế nào thì chúng ta sẽ là thế ấy. Đó là một quá trình tự nhiên, không liên quan đến một chủ thể đặc biệt nào.
Sau đó chúng ta có thể bắt đầu ý thức đến nội dung tư tưởng của mình, có nghĩa là ta biết chúng thiện hay ác. Ta có thể tập buông bỏ bất cứ suy nghĩ tiêu cực nào và thay thế nó bằng cái khác. Ngay đó ta có thể khởi tâm thiền, mà không tách rời khỏi các hoạt động bên ngoài. Khi đang chú tâm đến hơi thở trong thiền, một ý nghĩ xen ngang, ta tập buông suy nghĩ, trở về với hơi thở. Ta có thể sử dụng quy cách đó trong đời sống hàng ngày để buông những suy nghĩ bất thiện. Lúc đó ta thay thế bằng ý nghĩ thiện, giống như khi đang hành thiền ta thay thế bằng hơi thở.
Chánh niệm về quá trình tư duy được Đức Phật gọi là “bốn nỗ lực cao thượng” (hay bốn tinh tấn ba-la-mật: 1. Tránh các trạng thái tâm bất thiện, 2. Chế ngự các trạng thái tâm bất thiện, 3. Phát triển các trạng thái tâm thiện, 4. Duy trì các trạng thái tâm thiện). Chúng là cốt lõi trong quá trình thanh tịnh. Con đường tâm linh là con đường thanh tịnh, xoay quanh chánh niệm. “Chỉ có một cách để thanh tịnh hóa chúng sanh, chế ngự khổ, giải thoát khỏi đau buồn, ưu não, than van, để bước vào con đường cao thượng, để đạt được Niết-bàn, đó là chánh niệm” (Lời Phật dạy). Sự thanh tịnh hóa không chỉ mang lại tâm an bình cho một cá nhân, góp phần vào hòa bình thế giới, mà còn để giúp ta hành thiền.
Niềm hy vọng rằng người ta có thể ngồi xuống gối thiền, theo dõi hơi thở, rồi tâm trở nên định, là huyễn hoặc. Người ta phải trang bị tâm để hành thiền. Do đó, ta phải thực hành bốn tinh tấn ba-la-mật này, không chỉ trong lúc hành thiền, mà cả trong cuộc sống hàng ngày. Nhờ đó ta sẽ đạt được an tĩnh nội tâm là điều mà ai cũng hoài vọng, nhưng có mấy ai tìm được.
Tinh tấn đầu tiên là không để cho tư tưởng bất thiện chưa phát khởi, phát khởi. Muốn làm được điều này chánh niệm phải thật sắc bén. Một tư tưởng chưa phát khởi, tạo nên những làn sóng đi phía trước. Để biết được rằng chúng không mang đến lợi ích gì, ta cần nhiều chú tâm và công phu tu tập.
Tinh tấn thứ hai, không để một tư tưởng bất thiện đã phát khởi, được duy trì, có thể được thực hiện bởi bất cứ ai có thiện chí, nếu người đó biết là không có ai khác để đổ lỗi ngoài mình. Ý nghĩ bất thiện không phải do ngoại vật kích động, mà hoàn toàn do các uế nhiễm từ bản thân.
Tinh tấn thứ ba là khiến cho tư tưởng thiện, chưa phát khởi, được phát khởi. Có nghĩa là chúng ta phải liên tục quán sát tâm, khuyến khích những ý nghĩ tích cực, thiện lành khi chúng chưa có mặt, ngay cả trong những hoàn cảnh khó xử nhất.
Cuối cùng, tinh tấn thứ tư là làm cho tư tưởng thiện, đã phát khởi, được duy trì. Trong khi hành thiền, điều đó liên quan đến đề mục thiền quán của ta. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, đó là phản ứng của tâm. Nếu ta có chút cảm nhận đối với bản thân, ta có thể cảm thấy bấn loạn bên trong khi tư tưởng bất thiện phát khởi, cảm giác của sự chống đối. Tư tưởng bất thiện luôn ở trong tâm ta trong quá nhiều năm tháng, đến nỗi chúng đã trở thành những phần không thể thiếu trong quá trình tư duy của ta. Cần phải có chánh niệm và quyết tâm ta mới buông bỏ được chúng.
Khi hành thiền chúng ta trở nên ý thức rằng các tư tưởng bất thiện của mình không do ai hay hoàn cảnh bên ngoài tạo ra. Rồi tâm ta thêm vững mạnh để có thể buông những gì ta không cần, giữ lại hoặc thay thế bằng những điều hữu ích. Bốn tinh tấn ba-la-mật này là bốn căn bản của chánh niệm liên quan đến nội dung tư tưởng của ta (niệm Pháp). Nếu tất cả mọi người trên thế giới đều thực hành điều này thì thế giới này đáng sống hơn nhiều.
Trạng thái nội tâm của ta được biểu hiện qua cảm xúc, phát khởi khi có sự xúc chạm của các giác quan. Suy tư cũng là một sự xúc chạm giác quan. Ý nghĩ bất thiện sinh ra các cảm thọ bất thiện, như là khó chịu, bực bội. Thấy, nghe, nếm, ngửi, chạm là năm ngoại giác quan. Tư duy là giác quan bên trong. Tất cả khi xúc chạm, đều tạo ra cảm giác. Kia là mắt và đối tượng của mắt. Khi cả hai đều tốt đẹp, nhãn thức phát sinh và kết quả là cái thấy. Nhãn căn, nhãn trần và nhãn thức tụ hội. Khi ta biết đó là cách bản thể này, mà ta gọi là “tôi”, hoạt động, chúng ta có thể dừng lại những chương trình đã được cài đặt sẵn trong tâm, luôn luôn phản ứng cùng một cung cách. Bởi thế không khó đoán người ta sẽ phản ứng như thế nào đối với một sự kích động quen thuộc nào đó, vì chương trình cài sẵn của họ chưa được thay đổi. Để dừng chương trình đó lại, trước hết ta phải biết có một chương trình, và nó bao gồm những gì.
Thí dụ, với nhĩ căn, là ống tai; rồi có âm thanh. Khi nhĩ thức phát khởi, vì cả căn và trần đều có mặt, ta có cái nghe, và từ cái nghe, cảm xúc phát khởi. Tai chỉ có thể nghe âm thanh, mắt chỉ có thể thấy màu sắc, hình thể. Còn tâm làm tất cả những thêm thắt, giải thích. Mỗi người lại có sự giải thích khác nhau, nên không ai thấy hay nghe bất cứ điều gì giống nhau.
Thí dụ, khi một người nam thấy một phụ nữ, có sắc vóc, tâm anh ta nghĩ, “Cô ta đẹp quá, mình phải lấy cô ta mới được”. Khi tôi nhìn cũng người phụ nữ đó, tôi hoàn toàn không có bất cứ ý nghĩ gì giống như thế. Vậy mà mọi người đều cố gắng để thuyết phục người khác rằng cái họ thấy, nghe là đúng nhất. Nhưng vì thường họ không thể thuyết phục người khác, nên họ bắt đầu bắn, giết người khác.
Suy nghĩ cũng là một xúc chạm của giác quan. Ta có ý căn và tưởng. Tâm thức phát sinh, tiếp xúc với ý nghĩ và tư duy bắt đầu. Từ đó cảm xúc phát khởi. Nếu ta nghĩ mình thương yêu mọi chúng sanh, thì dầu ta có thực sự làm được hay không, chắc chắn ta cũng có một cảm giác ấm áp, dễ chịu phát sinh từ ý nghĩ đó.
Tương tự, nếu ta thấy ghét ai đó, thì ta có cảm giác lạnh lùng, xa cách. Sau đó là phản ứng đối với cảm giác, hoặc là muốn/ước ao hay không muốn/xua đẩy. Khi chú tâm quán sát bản thân, chúng ta có thể trải nghiệm điều đó thật rõ ràng. Chính phản ứng đối với cảm xúc là cửa ngõ để vào tính nhị nguyên và khổ lần nữa. Nhưng đồng thời nó cũng chỉ cho ta cửa ra khỏi mọi phiền não.
Nếu một lần nào đó ta không phản ứng, nhưng biết rõ cảm giác chỉ là cảm giác, nếu ta có thể làm được như thế, thì chánh niệm đã được thiết lập. Ta cũng khởi lòng tin là ta có thể làm được như thế lần nữa, và đang thực sự thực hành thanh tịnh hóa tâm linh. Đó là một sự thuyết phục nội tại quan trọng. Đức Phật dạy rằng, chúng ta cần cả hai, học và hành. Văn (học) giúp ta biết Phật dạy những gì. Nhưng nếu ta không thực hành thì ta giống như con vẹt hay giả đạo đức, nói những điều mình không có chút kinh nghiệm tự chứng nào.
Qua sự thực hành chánh niệm, chúng ta trở nên ý thức đến các cảm xúc phát khởi khi có sự xúc chạm của các giác quan. Cảm xúc lúc nào cũng có mặt, chúng cần được nhận diện để ta có thể chuyển hóa cách sống theo bản năng thành cách sống có chủ đích của một con người. Theo bản năng, ta luôn là người phản ứng. Có chủ đích, ta trở thành người tạo dựng.
Có lẽ bài học quan trọng nhất ta cần học là luôn duy trì chánh niệm trong tất cả mọi hoạt động hàng ngày. Ta có thể thực hành dầu bất cứ ở đâu: tại nhà, ở chợ, nơi làm việc, lúc viết thư, điện thoại, bất cứ làm gì, bất cứ lúc nào. Thiền cho ta động lực, giúp ta tỉnh thức để tháo gỡ mọi chướng ngại ẩn tiềm trong các quan điểm của mình. Ta không thể thấy cái tổng thể, chỉ thấy từng bộ phận. Ta thấy những gì quanh ta, nhưng không thể thấy xa hơn nữa. Với chánh niệm, dường như có cánh cửa mở, khi mọi thứ đều có chỗ nhất định và đều liên kết với nhau. Ta buông bỏ được cảm giác về sự quan trọng của một cái ngã được thổi phồng, và có thể liên kết nhiều hơn với tất cả mọi hiện tướng. Tất cả những thứ này vẫn còn là thứ phẩm, là vấn đề bên lề. Chánh niệm thực sự nghĩa là biết. Khi ta biết và thực sự trải nghiệm, dần dần bản thân ta có thể chứng nghiệm được Tứ diệu đế. Lúc đó công việc của ta hoàn mãn.
Một trong những yếu tố của chánh niệm là khả năng đạt được nhất tâm. Chúng ta không trở nên phóng dật hay mù mờ, mà có thể giữ tâm ở vị trí của nó. Chúng ta phải ý thức rằng những chướng ngại của tâm là một bi kịch của con người, không phải bi kịch của cá nhân nào. Sự hiểu biết này giúp ta chịu đựng một cách nhẫn nại và chuyển hóa dần dần.
Ni sư AYYA KHEMA
Diệu Liên Lý Thu Linh (dịch)
Ni sư Ayya Khema (ảnh) sinh năm 1923, cha mẹ theo đạo Do Thái. Thời thơ ấu bà sống ở Berlin, Đức. Sau một thời gian nghiên cứu, thực hành thiền Phật giáo, Ni sư bắt đầu truyền dạy Thiền khắp thế giới. Năm 1978, Ni sư thành lập tu viện Theravada Wat Buddha Dhamma, nằm trong một khu rừng, gần Sydney, Úc. Ni sư cũng thành lập Trung tâm Nữ Phật tử Quốc tế (International Buddhist Women’s Center) và Đảo Parappuduwa dành cho các Ni (Parappuduwa Nuns Island), tại Tích Lan.
Ni sư thọ Đại giới ở Sri Lanka vào năm 1979 và là một trong những người tiên phong trong việc tranh đấu cho Ni giới.
Ni sư đã viết hơn 20 đầu sách về Thiền và Phật giáo bằng tiếng Anh và tiếng Đức. Quyển nổi tiếng nhất là Being Nobody, Going Nowhere (Việt dịch: Vô ngã, Vô ưu), được giải thưởng Christmas Humphreys Memorial Award. Các sách của Ni sư được thể hiện bằng một sự hiểu biết sâu xa về các công phu tu hành, thành quả của việc hành thiền, là lời kêu gọi mọi người hãy đơn giản hóa cuộc sống và thanh lọc tâm trí bằng cách ứng dụng những lời Phật dạy.
Ni sư Ayya Khema mất năm 1997 do bịnh ung thư.
__________________
(Chuyển ngữ theo Awake & Awareness, là một trong mười bài pháp thoại mà Ni sư Ayya Khema đã giảng trong một khóa tu tại Trung tâm Đào tạo Tăng sĩ Pelmadulla, Tích Lan, năm 1989, và đã được tổng hợp thành sách với tựa đề To be seen here and now. Nguồn: www.vipassana.com/meditation/khema/hereandnow)
Theo: thuvienhoasen