Hỏi: - Thế nào là "kiến tánh khởi tu?"
Ðáp: - Tức là trước nhận ra được tánh giác rồi theo chỗ thấy đó, tu cho đến cứu cánh giải thoát.
-- Chưa kiến tánh phải tu như thế nào?
-- Như trong hồ nước có hòn ngọc, người thấy ngọc đưa tay nắm lấy (dụ cho người kiến tánh khởi tu). Người chưa thấy, quơ tay mò một lúc nắm lấy giữ gìn (dụ cho người chưa kiến tánh). Tuy chưa thấy nhưng tin chắc rằng trong ấy nhất định có hòn ngọc.
Hỏi: - Trong kinh Phật nói: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh". Làm sao chứng minh được đều này?
Ðáp: - Ví như có người đào đất được mấy tấm gương, người ấy đem một tấm lau chùi sáng, liền biết mấy tấm kia thế nào? Tức cũng có sáng, nếu chịu khó lau chùi.
Ðức Phật là một con người do tu mà được giác ngộ thành Phật, chúng ta cũng là một con người như Ngài tức cũng có tánh giác, cũng sẽ thành Phật không nghi.
Hỏi: -- Thế nào là Niết Bàn trong sanh tử?
Ðáp: -- Tâm niệm sanh diệt là sanh tử. Hết tâm niệm sinh diệt là Niết Bàn (ngay nơi tâm thể mà có Niết Bàn).
Hỏi: -- Tâm muốn vươn lên nhưng gặp nhiều nghịch cảnh không thực hiện được ý muốn. Phải dùng biện pháp gì?
Ðáp:
1. Nghĩ mình đã chết.
2. Nhận thật mình đang sống trong cảnh mộng.
Hỏi: -- Có một Phật tử đến hỏi: Ngài Nam Tuyền bảo Triệu Châu: "Tâm bình thường là đạo, còn tu tức trái đạo". Tại sao Thầy dạy chúng con tu?
Ðáp: -- Ngài Nam Tuyền nói là chỉ cho người "Tâm đã bình thường". Trái lại, tâm con chưa bình thường nên Thầy dạy con tu.
Hỏi: -- Cúng dường người nào có phước nhiều nhất?
Ðáp: -- Cúng dường người không tu không chứng (đạo nhân vô tâm) phước nhiều nhất.
-- Người không tu không chứng là người nào?
-- Ðây chính là trở về với chính mình.
-- Tại sao gọi là vô tu, vô chứng?
-- Vì tự nó sẵn có đâu phải do tu mà được. Dụ tánh nước tự trong, đâu phải do lóng nước mới trong.
Tóm lại, trở về với chính mình mới quý (giải thoát sinh tử), dù cúng dường mười phương chư Phật, cũng chỉ là Phật bên ngoài được phước mà thôi, nên gọi là không bằng.
Hỏi: -- Tại sao căn bản đạo Phật xây dựng trên quan niệm nhân sinh đau khổ (dụ Khổ đế)?
Ðáp: -- Vì khổ có nghĩa là "Vô thường". Vô thường chi phối tất cả sự vật, không một cá nhân nào thoát khỏi (khổ là một lẽ thật muôn đời). Từ khổ mà giải thoát mới là giải thoát chân thật, ngoài ra tưởng tượng một cảnh giới nào đó để giải thoát, đó là giải thoát hư tưởng vậy.
Sống Thật
Thiền Sư Triệu Châu nói: "Cả ngày ăn cơm mà chẳng nhai nát một hạt gạo. Cả ngày mặc áo mà chẳng dính mắc một sợi tơ". Ngài muốn nói gì với chúng ta?
-- Bởi vì người đạt đạo thấu được lẽ chân, nhận ra tánh chân thật của chính mình. Rõ thông các hành động đều từ tâm thể hiện, nên không dấy niệm có không, được mất... Trái lại, phàm phu ngu mê, chạy theo thức tình phân biệt, lúc ăn còn nghĩ trăm thứ, lúc mặc còn nghĩ trăm việc. Do đó mà phiền não (tham, sân, si) dấy khởi mất tánh thường nhiên, tâm luôn luôn bàng hoàng xao xuyến, khắc khoải lo âu... Vì vậy mà sống xa với đạo (lẽ thật). Vì sống với đạo phải sống với tánh bình thường. Tánh bình thường này ai ai cũng có và không lúc nào vắng mặc nó. Tuy nhiên, vì ta mãi lo chạy theo ngoại cảnh mà bỏ quên tánh ấy. Khi chúng ta nhớ lại không chạy theo ngoại cảnh, tức là trở lại tánh thường nhiên. Tánh ấy nó thường hằng và miên viễn không phải đợi tìm kiếm mới có.
Thiền Sư Vĩnh Gia Huyền Giác nói: "Ma ni châu, nhân bất thức. Như lai tàng lý thân thâu đắc. Lục ban thần dụng không bất không. Nhất khỏa viên quang sắc phi sắc". Nghĩa là: Có ngọc Ma ni người không biết. Sáu ban thần dụng (lục thông diệu dụng) không mà chẳng không. Một viên tròn sáng sắc mà chẳng phải sắc.
Thể tánh vắng lặng thường nhiên của chúng ta ví như hạt minh châu. Hạt châu này sẵn trong kho Như Lai của chúng ta, nếu chịu khó sẽ nhận đặng. Khi nhận được châu liền có đủ thần thông diệu dụng bất khả tư nghì. Nó vốn tròn sáng không phải sắc, không phải không mà gồm đủ cả sắc và không.
Người nhận ra hạt châu này sống với nó mới là sống thật. Hạt châu này chính là tánh giác của mọi người chúng ta vậy.
Tóm lại, muốn sống thật là phải nhận ra được tánh giác của chính mình, tánh ấy nó bất sanh bất diệt tròn sáng không từng ô nhiễm. Khi hằng sống với tánh giác thì không còn lầm mê, không bị sáu trần sai sử. Nhờ đó mà định lực chúng ta kiên cố, trí tuệ tròn đầy, sanh tử nhân đây mà dứt. Ðây chính là sống thực và sống miên viễn vậy.
Theo: http://www.budsas.org/uni/u-labode2/labo2_3.htm