Như một dòng nước lặng lẽ trôi

"Đạo đức là căn bản thật cần thiết giúp mang lại một thế giới hài hòa, trong thế giới đó mọi người đều được sống xứng đáng như những con người, không như loài thú vật. Phát huy đạo đức là tâm điểm của việc tu tập. Hãy giữ gìn giới luật, phát động lòng từ bi và kính trọng mọi hình thức của sự sống. Phải thận trọng trong từng lời nói và hành động. Hãy xem đạo đức như một phương tiện nhằm giúp mình đơn giản hóa và tinh khiết hóa cuộc sống của mình. Khi nào đạo đức trở thành nền móng hiện ra trong từng hành động của mình, thì tâm thức cũng theo đó mà trở nên nhân từ, trong sáng và an bình hơn. Trong bối cảnh ấy, thiền định mới có thể nẩy nở một cách dễ dàng được" - Ajahn Chah.

Bài Giảng của Thiền Sư Ajahn Chah


Bắt đầu từ giây phút này, tôi xin quý vị hãy cố gắng chú tâm, đừng để tâm trí mình phiêu du hết nơi này đến nơi khác. Quý vị hãy tưởng tượng rằng mình đang ngồi một mình trên đỉnh núi cao hay trong một khu rừng hoang vắng. Quý vị là gì và tại sao lại đang ngồi ở đấy? Phải chăng quý vị đang mang một thân xác và một tâm thức hay không - thật thế, không có gì khác hơn ngoài hai thứ ấy. Những gì cất chứa bên trong nhân dạng một con người đang ngồi nơi ấy chỉ đơn giản gồm một thứ gọi là "thân xác", và một thứ gọi là "tâm thức". Đối với tâm thức thì nó là một thứ gì đó biết ý thức và trong lúc này thì nó cũng đang suy nghĩ ...
Nếu muốn tìm hiểu xem một cái gì đó đang ngồi tại nơi này và trong giây phút này, thì đấy cũng chỉ là một thân xác và một tâm thức. Chúng ta thường lẫn lộn giữa hai thứ ấy, thế nhưng nếu muốn tìm thấy sự an bình thì phải hiểu bản chất đích thật của hai thứ ấy là gì. Trong lúc này thì tâm thức chưa được luyện tập, nên nó còn nhơ bẩn và u tối - có nghĩa là nó chưa phải là một một tâm thức tinh khiết. Vì thế chúng ta phải sử dụng phép thiền định để luyện tập nó.
Nhiều người nghĩ rằng thiền định là phải ngồi xuống, hai chân bắt tréo vào nhau, thế nhưng thật ra thì cũng có thể thiền định với bất cứ một tư thế nào. Chúng ta có thể thiền định khi đang đứng, đang ngồi, đang đi hay đang nằm, tóm lại là có thể thiền định vào bất cứ lúc nào (trong nếp sống thường nhật). Nghĩa từ chương của chữ Samâdhilà "tâm thức được thiết lập một cách vững chắc". Nếu muốn phát huy samâdhithì không được bóp ngạt tâm thức! Luyện tập samâdhilà nhằm phát huy trí tuệ và sự hiểu biết. Samâdhi là một tâm thức vững chắc, tập trung vào một điểm duy nhất. Vậy thì nó tập trung vào điểm nào? Đấy là điểm thăng bằng. Nó tập trung đúng vào điểm ấy. Tuy nhiên nhiều người lại nghĩ rằng luyện tập thiền định là phải tìm cách làm cho tâm thức phải im lặng. Họ thú nhận rằng: "Tôi cố gắng ngồi xuống để thiền định thế nhưng không sao giữ cho tâm thức dừng lại được một phút nào cả. Nó chạy hết đầu này đến đầu kia. Vậy làm thế nào để bắt nó phải dừng lại?" Thiền định nào có phải là bắt tâm thức dừng lại đâu. Phải luôn cần có một sự chuyển động thì sự hiểu biết mới có thể bùng lên được.
Người ta thường than phiền: "Tâm thức phóng đi, tôi lôi nó trở lại; nó lại phóng đi, tôi lại phải lôi nó về". Ngồi đấy để đuổi bắt tâm thức quả là mất hết thì giờ. Họ cứ tưởng rằng tâm thức chạy tán loạn ra khắp hướng, thế nhưng thật ra thì đấy chỉ là một cảm giác mà thôi (tâm thức vẫn ở một chỗ, tức là bên trong não bộ của mình, nó chẳng chạy cũng chẳng phóng đi đâu cả, nó chỉ dậm chân tại chỗ để mà hành hạ mình thế thôi). Chẳng hạn một số người khi nhìn vào gian phòng này sẽ thốt lên: "Ồ, gian phòng to quá!" Thế nhưng thật ra thì gian phòng cũng chẳng to lớn gì. Nếu quý vị cho rằng nó to lớn thì đấy cũng chỉ là một sự cảm nhận của quý vị mà thôi (chỉ là một sự diễn đạt của tâm thức).Trên thực tế, gian phòng chỉ mang kích thước của nó, kích thước đó (tự nó)không lớn cũng không nhỏ (to lớn hay chật hẹp là do sự diễn đạt chủ quan và quy ước của tâm thức khi nó cảm nhận được kích thước của gian phòng. Đối với gian phòng thì nó vẫn là như thế, nó có kích thước như thế, không rộng cũng không hẹp. Thí dụ ngoài sân có ba gốc xoài, con số ba và các cây gọi là cây xoài chỉ có trong tâm thức của người nhìn ra sân, ngoài sân chỉ có "cây cối" mà thôi). Thế nhưng mọi chuyện lại cứ xảy ra như thế! Người ta bỏ hết thì giờ vào việc đuổi theo các cảm giác(impression, feeling / cảm tưởng hay sự tưởng tượng, sự đánh giá hay diễn đạt)của mình. Thiền định là nhằm vào mục đích mang lại sự an bình, (không phải là cách đuổi bắt các sự cảm nhận)... Vì thế trước hết phải hiểu an bình là gì, nếu không thì chẳng bao giờ chúng ta có thể tìm được nó.
Thông thường người ta nghĩ rằng "an bình" là một sự lắng dịu của tâm thức, thế nhưng thật ra an bình là sự lắng dịu của những thứ ô nhiễm tâm thần (những xúc cảm bấn loạn, những sự quán nhận sai lầm về hiện thực, nói theo kinh sách thì đấy là các tác động của vô minh). Đối với sự an bình theo cách mà người ta thường hiểu thì các thứ ô nhiễm tâm thần cũng chỉ tạm thời được đặt sang một bên, tương tự như lấy một tảng đá đè lên một đám cỏ. Bởi vì khi lấy tảng đá đi thì vài hôm sau cỏ lại mọc lên trở lại. Cỏ chỉ tạm thời bị lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Samâdhi(sự tập trung tâm thần, sự tĩnh lặng, sự định tâm hay "nhập định")cũng hoàn toàn tương tự như thế: tâm thức tạm thời lắng dịu thế nhưng các thứ ô nhiễm tâm thần thì vẫn còn nguyên! Thể dạng samâdhi mang lại một hình thức an bình nào đó, tương tự như tảng đá che khuất cỏ, sự an bình ấy chỉ có tính cách tạm thời (trong khi thiền định chúng ta có thể phát huy được thể dạng samâdhi, thế nhưng sau khi nhập cuộc trở lại với các sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật thì đâu cũng lại hoàn đấy). Nếu muốn tìm thấy một sự an bình đích thật thì phải phát huy trí tuệ. Sự an bình do trí tuệ mang lại sẽ tương tự như tảng đá để nguyên một chỗ. Nếu quý vị không lấy tảng đá đi thì cỏ cũng sẽ không bao giờ có thể mọc lại được. Đấy là sự an bình đích thật, và cũng là sự chấm dứt của các thứ ô nhiễm tâm thần.
Chúng ta vừa nói đến trí tuệ (pannâ) (pannâ là tiếng Pa-li, tiếng Phạn là prajnâ) và sự tĩnh lặng (samâdhi) có vẻ như là hai thứ khác nhau, thế nhưng phải hiểu rằng từ căn bản, hai thứ ấy cũng chỉ là một. Trí tuệ là thể dạng năng động của samâdhi, và samâdhilà thể dạng thụ động của trí tuệ. Cả hai có cùng một nguồn gốc như nhau, nhưng lại hướng vào hai chiều khác nhau và đảm trách các chức năng khác nhau [...].
Khi nào cần phải ngồi xuống để thiền định thì quý vị cứ ngồi xuống, thế nhưng không được quên rằng cứ phải ngồi xuống thì mới có thể thiền định được. Phải để cho tâm thức được tự do sống một cách trọn vẹn với mọi sự vật, hãy để cho mọi sự vật chuyển động hầu giúp chúng cảm nhận được bản chất đích thật của chúng . Vậy phải nhìn vào chúng như thế nào? Phải xem chúng mang tính cách vô thường, không hoàn hảo và vô cá thể(impersonal / vô ngã, không hàm chứa một thực thể hay một sự hiện hữu đích thật). Tất cả đều bất định. Nếu quý vị cho rằng: "Vật này đẹp tuyệt vời! Nhất định tôi phải chiếm hữu nó mới được", thì quý vị cũng nên nghĩ ngay rằng: "Chuyện đó chưa chắc đã là đúng" (chưa chắc vật ấy đẹp tuyệt vời một cách thật sự). Hoặc nếu quý vị cho rằng: "Tôi không thích thứ ấy một chút nào cả!", thì cũng phải nghĩ ngay: "Chưa chắc là đúng". Có phải thế hay không? Quả đúng là như thế đấy quý vị ạ! Chắc chắn không sai đâu (diễn đạt một sự cảm nhận nào đó cũng chỉ là một sự đánh giá chủ quan, sự diễn đạt ấy chỉ mang tính cách nhất thời - tức là vô thường - và không hề hàm chứa một giá trị tuyệt đối nào cả).
Có những món ăn trông có vẻ thật tuyệt vời, thế nhưng ngay cả đối với những chuyện (nhỏ nhặt)như thế quý vị cũng phải tự nhắc nhở mình: chưa chắc đã đúng. Tuy có vẻ đúng thật là như thế, đĩa thức ăn thật ngon, thế nhưng quý vị cũng cứ phải nghĩ rằng: "Chưa chắc!" Nếu muốn kiểm chứng điều ấy thì cũng không phải là chuyện quá khó: quý vị cứ thử ăn món ăn mà mình ưa thích mỗi ngày xem sao - tôi xin nhắc lại là quý vị ăn mỗi ngày cùng một món ấy, thì sớm muộn quý vị cũng chán ngấy và sẽ phải thú nhận rằng: "Món ăn không còn ngon như trước nữa". Sau đó quý vị cũng có thể nghĩ rằng: "Thật ra tôi thích các món ăn khác hơn" Thế nhưng cũng lại chưa chắc là đúng như thế (tóm lại là phải luôn nghi ngờ mọi cảm nhận của mình. Bởi vì đấy cũng chỉ là những phản ứng của tâm thức chi phối bởi tác động phát sinh từ xung năng của nghiệp. 

*Nếu chú ý thì chúng ta sẽ nhận thấy là trong suốt bài giảng nhà sư Ajahn Chah luôn tìm cách đơn giản hóa căn bản và các khái niệm thật thâm sâu trong giáo lý nhằm giúp người nghe dễ hiểu và dễ theo dõi hơn. Ông không hề sử dụng các thuật ngữ chuyên biệt trong kinh sách, cũng không giải thích dông dài về lý thuyết)!
Một số người hành thiền ngồi im "trong tư thế thiền định" cho đến khi tâm thần ngầy ngật, nhìn vào cứ tưởng như họ sắp chết đến nơi, họ không còn ý thức được là mình đang ở đâu nữa. Quý vị không nên để mình rơi vào tình trạng bế tắc như thế! Nếu cảm thấy buồn ngủ thì nên đứng lên đi đi lại lại! Hoặc sửa lại tư thế ngồi! Phải biết suy nghĩ. Nếu thật sự mệt mỏi thì cứ nằm ngủ, thức dậy sẽ thiền định trở lại. Luyện tập là phải như thế: phải ý thức, sáng suốt và nhận định đúng đắn. Tu tập trước nhất là phải quán nhìn vào thân xác và tâm thức mình. Phải nhìn thấy bản chất vô thường của chúng (những gì thuộc thân xác như vóc dáng, sắc đẹp, sức khoẻ, duyên dáng, mỹ miều... và cả những thứ hỗn độn trong tâm thức như yêu thương, hờn giận, tiếc nuối, hy vọng, lo buồn, sợ hãi, ghét bỏ, thông minh, đần độn..., tất cả đều là vô thường), sau đó mọi thứ khác cũng sẽ chuyển động theo (người thân, bạn hữu, của cải, danh vọng, thông thái, dốt nát... cũng đều là vô thường, cũng chẳng khác gì như thân xác và các tư duy hỗn độn trong tâm thức mình). Hãy nghĩ đến những chuyện ấy trong khi thưởng thức một món ăn ngon (không nên để cho các giác cảm thích thú - cũng như đớn đau - mang tính cách nhất thời có thể che khuất hiện thực và đánh lạc hướng sự quán nhận của mình về bản chất của mọi hiện tượng). Hãy nghĩ rằng: "Chẳng có gì chắc chắn cả" (đang ăn ngon thế nhưng món ăn chưa chắc thật sự là ngon như mình tưởng, hãy liên tưởng đến thí dụ vừa được nêu lên trên đây). Mỗi khi các phản ứng (có nghĩa là những sự cảm nhận và diễn đạt của tâm thức) nổi lên thì phải hạ chúng đo ván ngay, không nên để chúng cho mình do ván. Mỗi khi cảm thấy không thích một thứ gì đó (tình trạng bất toại nguyện)thì quý vị đành nhận chịu khổ đau: đấy là cách để cho hoàn cảnh hạ mình đo ván! Thái độ (thụ động)đó không thể giúp quý vị vật ngã các hoàn cảnh khó khăn và cho chúng đo ván được.
Hãy chuyên cần luyện tập trong bất cứ tư thế nào: dù là đang ngồi, đang đi, đang đứng hay đang nằm. Bởi vì dù là mình đang ngồi, đang đứng, đang đi hay đang nằm, thì nóng giận vẫn cứ có thể bùng lên với mình được, hoặc một sự thèm muốn nào đó cũng có thể hiện lên dù là mình đang trong tư thế nào. Vì thế không nên mâu thuẫn với chính mình (tự lừa dối mình)mà phải luyện tập trong bất cứ tư thế nào (không nên vin vào một lý do thiếu chánh đáng nào cả để tránh né việc luyện tập). Nhất là không nên luyện tập cho có, mà phải cố gắng một cách nghiêm chỉnh! Trong lúc đang ngồi hành thiền biết đâu cũng có thể hiện ra trong tâm thức mình một khó khăn nào đó (chẳng hạn như bỗng dưng cảm thấy buồn bực, sợ hãi, giận dữ, ganh tị, thèm muốn...), thế nhưng chưa kịp dẹp xong khó khăn ấy thì một khó khăn khác lại hiện ra. Vậy quý vị hãy tự nhủ: "Chưa chắc đúng, chưa chắc đúng là như thế!" Đấy là cách giúp mình nghi ngờ (tính cách đích thật của)các tư duy ấy (tức là các khó khăn hiện ra với mình)và phải hạ chúng đo ván ngay tức khắc, trước khi chúng có thể cho mình đo ván! (xin nhắc lại là tất cả các tư duy và xúc cảm hiện ra trong đầu mình chỉ là những sự diễn đạt chủ quan của tâm thức ảnh hưởng bởi tác động của nghiệp, chúng không hàm chứa một thực thể nào cả, tức có nghĩa là "Chưa chắc đúng là như thế!", nói cách khác là các tư duy và xúc cảm ấy không mang một tính cách khách quan và vững chắc nào, tức không hàm chứa một sự hiện hữu nội tại và tuyệt đối nào cả. Do đó nhà sư Ajahn Chah khuyên chúng ta phải xem những thứ ấy "không đúng thật là như thế" và phải cho chúng đo ván ngay. Bởi vì nếu cho chúng là đúng để nắm bắt chúng, bám víu vào chúng thì đấy chính là cách gây ra mọi thứ khó khăn cho mình. 


Cách giảng của nhà sư Ajahn Chah rất thực tế và phi lý thuyết: ông chỉ khuyên chúng ta trong khi hành thiền nếu có những khó khăn - chẳng hạn như thèm muốn, thích thú, vui sướng, giận giữ, bám víu..., tức là mọi sự diễn đạt và cảm nhận của tâm thức - hiện ra thì phải nhắc nhở mình ngay là "Chưa chắc là đúng như thế" và hãy vật cho chúng đo ván ngay lập tức. Phương pháp "hạ ngay các thứ khó khăn khiến cho chúng phải đo ván" là cách mà nhà sư Ajahn Chah đưa ra để khuyên những người chất phác, thật thà có thể "hành thiền" mà không cần phải vận dụng đến lý thuyết hay trí tuệ lôi thôi gì cả! Xin chắp tay bái phục thêm một lần nữa những lời giảng thật thiết thực và đơn giản của nhà sư Ajahn Chah về những gì hết sức thâm sâu trong  Đạo Pháp. ..


Bài giảng tại chùa Wat Tum Saeng Pet vào dịp kiết hạ năm 1981

Bản dịch tiếng Pháp: Jeanne Schut
Chuyển ngữ:Hoang Phong



Tỳ kheo Khất Sĩ Ajahn Chah (1918-1992)

Ajahn Chah (1918-1992) là một nhà sư nổi tiếng của Thái Lan và cũng được xem là một trong số các vị thiền sư lỗi lạc nhất của thế kỷ XX. Cách thuyết giảng trực tiếp, minh bạch và dễ hiểu của ông đã thu hút được đông đảo người nghe. Kiến thức uyên bác của ông cũng đã góp phần giúp cho Phật Giáo Thái Lan tiến một bước thật dài trong thế kỷ XX, và đã tạo thêm nhiều uy tín cho Phật Giáo Theravada nói chung trong thế giới Tây Phương
Ngày còn trẻ ông đã từng xuất gia suốt trong ba năm liền, thế nhưng sau đó ông đã trở về giúp cha mẹ trong việc đồng áng. Năm hai mươi tuổi ông lại quyết định trở vào chùa, và sau đó được thụ phong tỳ kheo vào ngày 26 tháng 4 năm 1939. An phận với cuộc sống của một người tỳ kheo trẻ, ông chăm lo tu học và nghiên cứu kinh sách, và nhờ đó ông cũng rất thông thạo tiếng Pa-li. Thế nhưng năm năm sau thì cha ông ngã bệnh rồi qua đời, biến cố ấy đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của ông. Trực tiếp cảm nhận được bản chất của khổ đau là gì nên ông lại càng muốn đến gần hơn nữa với cái bản chất ấy của sự sống hầu giúp mình tìm hiểu sâu xa hơn những lời giáo huấn của Đức Phật. Ông rời chùa và sống cuộc đời của một người tỳ kheo khất sĩ. Ông đi chân đất hơn bốn trăm cây số xuống miền trung nước Thái, khất thực từ làng này sang làng khác, đêm ngủ dưới các gốc cây hay trong nghĩa địa. Sau cùng ông xin vào tu trong một ngôi chùa tuy nhỏ nhưng thật nghiêm khắc, bắt người xuất gia phải giữ giới luật thật nghiêm túc và khắt khe. Thế nhưng chính trong ngôi chùa này ông lại được nghe nói đến một vị thiền sư lỗi lạc là Ajahn Mun Bhuridatto tu tập trong một ngôi chùa ở miền đông bắc Thái. Ajhan Chah lại ôm bình bát quay về phương bắc để xin tu tập với vị thiền sư này.
Một hôm ông hỏi thiền sư Ajahn Mun rằng kinh sách thật hết sức phong phú, chính xác và vô cùng tinh tế, thế nhưng ông không biết phải làm thế nào để ứng dụng vào việc tu tập của mình. Nhà sư Ajahn Mun trả lời rằng giáo huấn thật hết sức phong phú và chi tiết, thế nhưng cốt lõi thì lại hết sức đơn giản, phát huy được sự chú tâm thì sẽ nhận thấy ngay rằng tất cả cũng chỉ là do nơi tâm (coeur-esprit / heart-spirit / chữ tâm có hai nghĩa: vừa tâm lại vừa tim)của mình, đấy chính là con đường tu tập đích thật. Một câu giảng thật hết sức ngắn gọn thế nhưng đã mở ra cho Ajahn Chah cả một Con Đường.
Sau đó ông lại trở về với lối sống của một người tỳ kheo khất sĩ trong khu rừng Pah Pong, đầy cọp, rắn và muỗi sốt rét. Thế nhưng rất nhiều người vào rừng tìm ông để xin làm đệ tử. Một ngôi chùa mang tên là Wat Pah Pong được dựng lên trong khu rừng, và dần dần sau đó nhiều ngôi chùa khác được dựng lên chung quanh.
Năm 1967, một tỳ kheo người Mỹ vừa mới được thụ phong là Ajahn Sumedho lên vùng bắc Thái để nhập cư kiết hạ và tình cờ được nghe nói đến Ajahn Chah. Nhà sư trẻ người Mỹ này tìm gặp ông và xin thụ giáo. Ajahn Chah thường bắt các đệ tử của ông sống thật khắc khổ, sai bảo những việc đôi khi vượt hơn cả sức chịu đựng của họ với mục đích thử thách quyết tâm của họ và đồng thời cũng giúp họ ý thức được là không nên chỉ biết bám víu vào sự an lạc mang lại từ phép thiền định. Nhà sư trẻ Ajahn Sumedho sau năm năm chịu đựng đã vượt được các thử thách ấy và Ajahn Chah bắt đầu giảng Pháp cho ông. Ajahn Sumedho ngày nay đã trở thành một tỳ kheo khất sĩ người Tây Phương rất nổi tiếng, và hiện trụ trì một ngôi chùa ở Anh Quốc.
Năm 1981, Ajahn Chah ngã bệnh vì bị tiểu đường. Người ta đưa ông về Bangkok để chữa trị, thế nhưng bệnh tình ngày càng trầm trọng. Một thời gian sau thì ông không còn cử động được và cũng không còn nói năng gì được nữa. Bài giảng dưới đây là một trong những bài giảng cuối cùng của ông trước khi lâm bệnh. Người dịch cũng xin mạn phép trích ra đây một câu giảng của ông, vì thiết nghĩ câu này cũng đáng cho mỗi người trong chúng ta suy ngẫm và cũng là một dịp để nhìn lại hành động, cuộc sống và mọi thứ mưu tính trong tâm thức mình.

"Đạo đức là căn bản thật cần thiết giúp mang lại một thế giới hài hòa, trong thế giới đó mọi người đều được sống xứng đáng như những con người, không như loài thú vật. Phát huy đạo đức là tâm điểm của việc tu tập. Hãy giữ gìn giới luật, phát động lòng từ bi và kính trọng mọi hình thức của sự sống. Phải thận trọng trong từng lời nói và hành động. Hãy xem đạo đức như một phương tiện nhằm giúp mình đơn giản hóa và tinh khiết hóa cuộc sống của mình. Khi nào đạo đức trở thành nền móng hiện ra trong từng hành động của mình, thì tâm thức cũng theo đó mà trở nên nhân từ, trong sáng và an bình hơn. Trong bối cảnh ấy, thiền định mới có thể nẩy nở một cách dễ dàng được" - Ajahn Chah.


Bures-sur-Yvette, 06.11.13


Hoang Phong chuyển ngữ