BỘ MẶT NGUYÊN THỦY

"Bộ mặt nguyên thủy” là một bài giảng của Ðại Ðăng Quốc Sư cho hoàng hậu Hanazono. Ðại Ðăng Quốc Sư (1281-1337) là một trong những vị thầy sáng chói nhất của giòng Lâm Tế Nhật Bản. Ngài đã ẩn mình một thời gian, giả trang là một người ăn mày để lánh khỏi danh vọng. 

“Trong những bước đầu tập thiền, tất cả chúng ta đều phải dốc lòng tập tọa thiền (ngồi thiền). Ngồi trong tư thế kiết già hay bán kiết già, đôi mắt khép hờ, để làm sao thấy được bộ mặt nguyên thủy, tức là bộ mặt sẵn có của chúng ta ngay từ trước khi được cha mẹ sinh ra. Có nghĩa là ta cảm nhận được trạng thái nguyên thủy trước khi cha mẹ sinh ra ta, trước khi trời và đất phân ly, trước khi ta có được hình hài con người này. Khi ngồi thiền với thân tâm rỗng lặng, bộ mặt nguyên thủy sẽ hiện ra. Nó không có sắc, không có hình, rỗng không như bầu trời trong sáng trong đó không có một hình thể sắc tướng nào.
Bộ mặt nguyên thủy thực sự là không có tên, nhưng nó được gọi bằng những danh từ như là bản lai diện mục, Thượng đế, Phật tính, và chân tâm. Nó cũng giống như con người, khi mới sinh ra chưa có tên, nhưng sau đó được gọi bằng đủ thứ tên. Một ngàn bẩy trăm công án (Ko-an) hay những đề tài mà các thiền sinh tham khán, tất cả đều chỉ cốt cho họ nhận ra được bộ mặt nguyên thủy của mình. Ðức Thế Tôn ngồi thiền trong suốt sáu năm nơi núi tuyết, và ngài đã giác ngộ trong một buổi sáng tinh mơ khi nhìn thấy ngôi sao mai chiếu lấp lánh trên trời, đó là ngài đã thấy được bộ mặt nguyên thủy của chính mình. Khi nói đến các vị tổ ngày xưa đã được đại ngộ, đó là họ đã thấy được bộ mặt nguyên thủy, hay còn gọi là bản lai diện mục. Nhi tổ Thiền tông Huệ Khả đứng dầm mình trong tuyết, hi sinh tự chặt mất một cánh tay của mình, cốt để cầu lấy sự giác ngộ; Lục tổ Huệ Năng đã đốn ngộ khi nghe câu kệ từ kinh Kim Cương; Linh Vân ngộ khi nhìn thấy cánh hoa đào nở, Hương Nghiêm ngộ khi nghe tiếng viên gạch rớt trên cành tre; Lâm Tế ngộ khi bị Hoàng Bá đánh, và Tozan ngộ khi nhìn thấy bóng của mình phản chiếu trên mặt nước.
Ðó chính là họ đã gặp được “Người chủ đích thực”. Thân này giống như một ngôi nhà, và ngôi nhà đó phải có một người chủ. Người chủ nhà đó chính là bộ mặt nguyên thủy. Những kinh nghiệm nóng lạnh, những cảm giác thiếu thốn, hay thèm muốn --- tất cả chỉ là những vọng tưởng và không thực sự thuộc về vị chủ nhân đích thực của ngôi nhà này. Những vọng tưởng chỉ là những gì khởi phát ra sau này, chúng sẵn sàng tan đi theo từng hơi thở. Nếu để bị lôi cuốn trong những vọng tưởng đó, chúng ta sẽ tự đọa đầy trong địa ngục, quanh quẩn hóa kiếp theo sáu nẻo luân hồi. Ði sâu vào thực tập tọa thiền, ta sẽ tìm thấy được nguồn gốc của tư tưởng. Tư tưởng là một cái gì không hình không tướng, nhưng vì những chấp mê theo chúng còn tồn tại ngay cả tới sau khi chết, con người rơi vào địa ngục đau khổ, hay phải chịu muôn vàn phiền não trong thế giới vộ thường này.
Mỗi khi có tư tưởng khởi lên, ta hãy buông bỏ nó đi. Hãy chú tâm vào việc quét sạch đi những tư tưởng. Tọa thiền là quét sạch đi những tư tưởng. Khi những tư tưởng lắng xuống, bộ mặt nguyên thủy sẽ hiện ra. Những tư tưởng giống như những đám mây, khi mây tan, mặt trăng sẽ xuất hiện. Mặt trăng của chân lý vĩnh cửu, đó là bộ mặt nguyên thủy.
Phật chính là tâm ta. Cái gọi là “kiến tánh” có nghĩa là ta đã ngộ được tâm Phật của mình. Hãy không ngừng buông bỏ những tư tưởng, rồi ta sẽ thấy được tâm Phật. có thể có sự hiểu lầm rằng “kiến tánh” chỉ có thể thực hiện được khi ngồi thiền. Nhưng không phải như vậy. Yoka đại sư đã nói rằng: “Ði cũng là thiền, ngồi cũng là thiền. Nói năng hoặc im lặng, trong động hay trong tịnh, tất cả đều là thiền được. Thiền không phải chỉ là ngồi thiền và dẹp đi những tư tưởng của mình, mà Thiền chính là Giác. Dù đứng hay ngồi, hãy luôn giữ cho tư tưởng được tập trung và tỉnh giác. Và bỗng nhiên, bộ mặt nguyên thủy sẽ hiện ra với ta.”

Ngọc Bảo

(Trích dịch từ “A first Zen reader”)